Biện chứng của tự nhiên - Về những vấn đề của phép biện chứng

1. Những quy luật cơ bản

Sau khi vạch ra cho các nhà khoa học tự nhiên thấy sự cần thiết phải quay trở lại với phép biện chứng và chỉ ra con đường đi tới phép biện chứng duy vật, phần này nêu tóm tắt về ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Đó là các quy luật.

“Quy luật về sự chuyển hoá từ số lượng thành chất lượng và ngược lại.

Quy luật về sự xâm nhập lẫn nhau của các đối lập.

Quy luật về sự phủ định của phủ định”16.

Ngay ở phần đầu, Ăngghen đã nêu lên sự giải thích về phép biện chứng: “Vậy là từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà người ta đã rút ra được các quy luật của phép biện chứng. Những quy luật không phải là cái gì khác hơn là những quy luật chung nhất của hai giai đoạn phát triển lịch sử ấy cũng như là của bản thân tư duy”17.

Có thể nói đây là một định nghĩa về phép biện chứng, Ăngghen đã nêu lên quy luật phép biện chứng là khoa học về sự phát triển và mối liên hệ phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật biện chứng này được rút ra từ lịch sử của tự nhiên và của xã hội loài người.

Ăngghen phê phán Hêghen đã làm sai lạc phép biện chứng theo chủ nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra những ví dụ để chứng minh rằng: những quy luật biện chứng là những quy luật thật sự của sự phát triển của giới tự nhiên, tức là những quy luật đó cũng có giá trị đối với khoa học tự nhiên lý thuyết”18.

Ăngghen trình bày một cách hệ thống một quy luật là quy luật lượng - chất áp dụng vào các hiện tượng của giới tự nhiên “vô sinh”.

Về những quy luật khác thì chúng ta chỉ thấy một số ý kiến lẻ tẻ, tuy rất quan trọng nhưng không có hệ thống. Về các phạm trù của phép biện chứng duy vật cũng vậy, Ăngghen không có ý định trình bày đầy đủ như trong một sách phổ thông về triết học.

1.1. Quy luật lượng - chất

Về quy luật này, Ăngghen nêu: “Trong giới tự nhiên, thì những sự biến đổi về chất - xảy ra một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường hợp cá biệt - chỉ có thể có được do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động (hay là năng lượng như người ta thường nói)”19.

Ăngghen giải thích như sau: “Tất cả những sự khác nhau về chất trong giới tự nhiên đều dựa hoặc là trên thành phần hoá học khác nhau, hoặc là trên những số lượng hay hình thức vận động (năng lượng) khác nhau, hoặc như trong hầu hết mọi trường hợp, đều dựa trên cả hai cái đó. Như thế là nếu không thêm vào hoặc bớt đi một số vật chất hay vận động, nghĩa là nếu không thay đổi một vật thể về mặt số lượng, thì không thể thay đổi được chất lượng của vật thể ấy. Dưới hình thức ấy, luận đề thần bí của Hêghen không những đã trở nên hoàn toàn hợp lý mà thậm chí còn khá hiển nhiên nữa”20.

Qua nhiều thí dụ về vật lý học và hoá học thời đó, Ăngghen vạch rõ khoa học tự nhiên luôn luôn chứng thực những sự chuyển hoá lượng thành chất: “Trong vật lý học, người ta coi các vật thể là những cái gì không biến hoá hoặc không khác biệt về mặt hoá học; ở đây, chúng ta có những sự biến hoá của trạng thái phân tử của các vật thể, và có sự biến đổi hình thái của vận động, sự biến đổi này, trong mọi trường hợp - ít nhất là ở một trong hai mặt - đều làm cho các phân tử hoạt động. Ở đây mọi sự biến hoá đều là sự đổi lượng thành chất, là kết quả của sự biến đổi về lượng của số lượng vận động - vận động bất kỳ dưới hình thức nào - cố hữu của vật thể ấy hoặc được truyền cho vật thể ấy”21.

Ăngghen trích dẫn đoạn của Hêghen như sau: “Ví dụ như nhiệt độ của nước... không có ảnh hưởng gì mấy đến trạng thái lỏng của nó; nhưng nếu người ta tăng hoặc giảm nhiệt độ của chất nước lỏng, thì sẽ tới một điểm mà trạng thái kết hợp của nó sẽ biến đổi và nước trong trường hợp này sẽ biến thành hơi, trong trường hợp khác thành nước đá”.

Và Ăngghen nêu ra: “Ví dụ, cần phải có một cường độ dòng điện tối thiểu nhất định để đốt sáng dây bạch kim của đèn điện; ví dụ, mỗi kim loại có độ cháy sáng và nóng chảy của nó; ví dụ, mỗi chất lỏng có một điểm đông đặc và một điểm sôi nhất định ở một áp lực nhất định - chỉ cần chúng ta dùng những phương tiện của chúng ta để tạo ra những nhiệt độ tương đương; cuối cùng, ví dụ, mỗi chất khí cũng có một điểm tới hạn ở điểm này áp suất và sự làm lạnh sẽ biến thể khí thành thể lỏng. Nói tóm lại, những cái mà người ta gọi là  hằng số vật lý học thì phần nhiều là chỉ những điểm nút, ở những điểm ấy chỉ cần đem thêm vào hoặc bớt đi một số lượng vận động thì biến đổi được trạng thái của vật thể về chất, cho nên ở những điểm ấy, lượng đổi thành chất”22.

Ăngghen nhận xét rằng, quy luật này đã toàn thắng rực rỡ trong hoá học và nêu định nghĩa “hoá học là khoa học của sự biến đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi về thành phần số lượng”23.

Ăngghen lần lượt nêu ví dụ trong hoá học để chứng minh cho quy luật lượng chất này: Chất khí làm cười (prôôxyt nitric N2­­O) khác với anhyđric nitơ (penôxyt nitric N2O5) biết bao. Chất thứ nhất là một chất khí, chất thứ hai là một chất rắn. Đó là do thành phần hoá học của chất thứ hai có chứa ô xy nhiều hơn năm lần chất thứ nhất.

Quy luật này còn thể hiện rõ trong các dãy đồng đẳng của các hợp chất cácbon, nhất là trong các chất hyđrô cácbon đơn giản nhất. Các chất được kết hợp lại với nhau theo công thức CnH2n+2, cứ mỗi lần thêm CH2 thì lại tạo ra một chất mới khác với chất trước.

Tiếp đó, Ăngghen lại chứng thực quy luật này ở hiện tượng các chất đồng phân. Đồng phân là hiện tượng nhiều chất có cấu tạo giống nhau, nhưng khác nhau về thuộc tính vật lý do sự sắp xếp các nguyên tử trong phân tử khác nhau, các nguyên tử được sắp xếp trong phân tử một cách khác nhau thì có ảnh hưởng hoá học khác nhau. Ăngghen cho rằng: “Những hợp chất đầu dãy đòi hỏi một sự sắp xếp duy nhất của các nguyên tử với nhau. Nhưng nếu trong một dãy, số lượng nguyên tử kết hợp thành phân tử là một số lượng nhất định, thì các nguyên tử trong phân tử có thể sắp xếp theo nhiều cách thức; vì thế cho nên chúng ta có thể thấy hai hoặc nhiều chất đồng phân có một số lượng C, H, O như nhau trong một phân tử, nhưng lại khác nhau về chất lượng. Thậm chí chúng ta lại còn có thể tách ra bao nhiêu chất đồng phân đối với từng thành phần của dãy. Ví dụ, trong dãy paraphin, C4H10 có hai đồng phân, C5H12 có ba, đối với các hợp chất cao cấp, số lượng các chất đồng phân tăng lên rất nhanh. Thế là ở đây cũng vậy, số lượng nguyên tử trong phân tử quy định khả năng tồn tại và, - trong chừng mực điều đó được thực nghiệm xác minh, - sự tồn tại thực sự của những chất đồng phân khác nhau về chất”24.

Thêm một ví dụ chứng minh cho quy luật này là định luật của Menđêlêép: “Cuối cùng là quy luật của Hêghen không những chỉ có giá trị đối với các hợp chất mà còn có giá trị ngay cả đối với các nguyên tố hoá học nữa. Bây giờ thì chúng ta đã biết rằng: “những thuộc tính hoá học của các nguyên tố là một hàm số chu kỳ của trọng lượng nguyên tử của các nguyên tố đó”... do đó chất lượng của các chất ấy là do số nguyên tử lượng của các chất ấy quyết định. Điều đó đã được xác minh một cách huy hoàng. Menđêlêép đã chứng minh rằng trong các dãy nguyên tố đồng nhóm sắp xếp theo thứ tự nguyên tử lượng tăng dần, người ta thấy có nhiều chỗ trống, như vậy chứng tỏ rằng ở các nơi đó, có những nguyên tố mới còn phải tìm ra. Ông đã mô tả trước thuộc tính hoá học chung của một nguyên tố chưa biết đó mà ông gọi là êcanhôm vì nguyên tố này tiếp theo nhôm trong nhóm mà chất nhôm đứng đầu, và ông đã dự đoán tỷ trọng và trọng lượng nguyên tử cũng như thể tích nguyên tử của chất đó. Cách mấy năm sau, Lơcốc Đơ Boabôđrăng đã thực tế tìm ra nguyên tố đó và các lời tuyên đoán của Menđêlêép đã được chứng thực là đúng, với một và sự chênh lệch rất nhỏ. Chất êcanhôm chính là chất gali... Nhờ áp dụng - một cách không có ý thức - quy luật của Hêghen về sự chuyển hoá lượng thành chất, Menđêlêép đã hoàn thành một kỳ công khoa học có thể tự hào đứng ngang hàng với kỳ công của Lơ Vêriê khi ông tính ra quỹ đạo của hành tinh Hải vương mà người ta chưa biết”25.

Các quy luật của phép biện chứng thường được nhắc đến luôn trong nhiều bài văn chủ yếu, cũng như trong nhiều tài liệu sơ khảo. Ăngghen nói rằng, ông không định viết một tài liệu hướng dẫn về phép biện chứng mà chỉ muốn vạch rõ ràng các quy luật biện chứng là những quy luật phát triển thực tế của tự nhiên, và toàn bộ tác phẩm Biện chứng của tự nhiên của Ăngghen chính là nhằm chứng minh điều đó.

Tất cả các phần trong quyển sách này đều viết với tinh thần phép biện chứng duy vật. Vì vậy, khó mà nói rằng trong phần “Phép biện chứng”, Ăngghen đã trình bày xong về quy luật chuyển hoá lượng thành chất hay chưa. Chỉ có điều chắc chắn rằng quy luật này được Ăngghen nói tới nhiều chỗ trong những phần sau. Đặc biệt cần chú ý đến ý kiến của Ăngghen về sự chuyển hoá ngược lại từ chất thành lượng, điều này trong các tài liệu giáo khoa đôi khi không được nêu lên. Ăngghen phê phán thuyết máy móc và nói rằng quan điểm máy móc giải thích mọi sự biến đổi bằng sự thay đổi vị trí, giải thích tất cả mọi sự khác nhau về chất lượng bằng những sự khác nhau về số lượng và không thấy rằng quan hệ giữa số lượng và chất lượng là một quan hệ qua lại, rằng chất lượng có thể chuyển hoá thành số lượng cũng như số lượng có thể chuyển hoá thành chất lượng là một quan hệ qua lại” 26.

Đặc điểm của những người siêu hình trước hết là quy mọi sự khác nhau về chất thành những sự khác nhau về lượng, quan niệm về phát triển nói chung, chỉ là sự tuần tự tăng lên hay giảm bớt một cách giản đơn, chỉ là sự lắp lại cái cũ.

Để phê phán những nhà siêu hình, Ăngghen đã nhấn mạnh những sự thay đổi về lượng dẫn đến chất đổi và ngược lại. Đó là nội dung chính của quy luật lượng - chất.

1.2. Quy luật mâu thuẫn

Tuy Ăngghen chưa kịp trình bày một cách có hệ thống một quy luật cơ bản khác của phép biện chứng mà Ăngghen gọi là Quy luật về sự xâm nhập lẫn nhau của các đối lập nhưng ở phần Sơ thảo và Chú thích cũng có nhiều thí dụ chứng minh quy luật này.

Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, tương tự với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên. Sự hút và sự đẩy. Cực tính bắt đầu trong từ tính. Ở đây, cực tính xuất hiện trên độc một vật thể. Còn trong điện, cực tính ấy được phân phối giữa hai hay một số vật thể trên đó hiện ra những điện tích trái dấu. Tất cả những quá trình hoá học chung quy chỉ là những hiện tượng của hút và đẩy hoá học. Cuối cùng, trong đời sống hữu cơ, sự cấu thành của nhân tế bào cũng phải được coi là một hiện tượng phân cực của anbumin sống, và học thuyết tiến hoá đã vạch ra rằng, bắt đầu từ cái tế bào giản đơn, mỗi một bước tiến tới, một mặt là loài thực vật phức tạp nhất, mặt khác là con người, đều được thực hiện thông qua sự đấu tranh thường xuyên giữa tính di truyền và tính thích ứng như thế nào. Ở đây, người ta thấy rằng những phạm trù như là “khẳng định” và “phủ định” ít thích dụng đối với những hình thức tiến hoá ấy biết chừng nào. Người ta có thể coi tính di truyền là mặt khẳng định, bảo thủ và tính thích ứng là mặt phủ định thường xuyên thủ tiêu những thành quả của tính di truyền; nhưng người ta cũng có thể coi tính thích ứng như là sự hoạt động sáng tạo, tích cực, khẳng định, và tính di truyền như là hoạt động kháng cự, tiêu cực, phủ định. Nhưng, cũng như trong lịch sử, sự tiến bộ xuất hiện với tư cách là sự phủ định những trật tự đang tồn tại, ở đây cũng thế - vì những lý do hoàn toàn thực tiễn - tốt nhất ta nên coi tính thích ứng là hoạt động phủ định. Trong lịch sử, sự vận động thông qua các mặt đối lập hiện ra hoàn toàn rõ rệt trong mọi thời kỳ nguy biến của các dân tộc tiên tiến. Trong những lúc như thế, một dân tộc chỉ được chọn: “hoặc là, hoặc là!”, hơn nữa, vấn đề được luôn luôn đặt ra một cách hoàn toàn khác với sự mong muốn của những bọn philixtanh làm chính trị trong tất cả các thời kỳ. Ngay cả bọn philixtanh thuộc phái tự do năm 1848 ở Đức cũng đã bị đặt, một cách đột ngột và bất ngờ vào năm 1849, ngược lại với ý muốn của nó, trước vấn đề: hoặc là trở lại chế độ phản động cũ dưới một hình thức thậm tệ hơn, hoặc là tiếp tục cuộc cách mạng cho tới chế độ cộng hoà, - có thể là ngay cả tới một nền cộng hoà thống nhất và không chia cắt, với chủ nghĩa xã hội ở phía sau. Nó đã do dự không lâu và đã ủng hộ việc thành lập chế độ phản động của Mantoiphen, cái tinh hoa của chủ nghĩa tự do Đức” 27. Ở đây Ăngghen nói rất kỹ về sự đồng nhất của các mặt đối lập.

Ăngghen vạch rõ mối liên hệ giữa biện chứng khách quan, chi phối giới tự nhiên với biện chứng chủ quan phản ánh của nó trong ý thức của con người: “Tính đối lập lẫn nhau của những quy định lý tính của tư duy: sự phân cực. Nếu như điện, từ... đều phân cực, đều vận động trong những mặt đối lập, thì tư duy cũng thế. Nếu như với điện, từ... không thể chỉ bám lấy độc một mặt - không một nhà khoa học tự nhiên nào nghĩ tới việc chỉ bám lấy độc một mặt - thì với tư duy cũng vậy”28. Người ta còn tìm thấy những tư tưởng sâu sắc về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong những đoạn ngắn ở phần Biện chứng của tác phẩm. Ăngghen viết rằng: “Tính đồng nhất và tính khác biệt - tính tất yếu và tính ngẫu nhiên - nguyên nhân và kết quả - đó là những đối lập chủ yếu, những đối lập, nếu xét một cách riêng rẽ, thì sẽ chuyển hoá lẫn nhau”29.

Ăngghen cho rằng, các mặt đối lập như khẳng định - phủ định, tích cực - tiêu cực, dương và âm có thể gọi ngược lại điều đó không thay đổi bản chất của sự việc, bởi vì sự đối lập đó tồn tại một cách khách quan.

Ăngghen viết: “Nếu người ta đặt tên gọi ngược lại, và thay đổi toàn bộ thuật ngữ còn lại cho phù hợp thì mọc cái vẫn đều đúng. Lúc đó, chúng ta sẽ gọi phương Tây là phương Đông và phương Đông là phương Tây. Mặt trời sẽ mọc đằng Tây, những hành tinh sẽ quay từ Đông sang Tây, v.v.; chỉ có cực tên gọi là thay đổi. Hơn nữa, trong vật lý học, chúng ta gọi là Cực Bắc, các Cực Nam thật sự của nam châm, cái cực bị hút bởi Cực Bắc của địa từ, - và như thế cũng chẳng sao”30.

1.3. Quy luật phủ định của phủ định

Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ăngghen cũng không nói kỹ về quy luật phủ định của phủ định, và ở đây chúng ta cũng chỉ thấy những luận điểm lẻ tẻ về vấn đề này. Hơn nữa tác dụng của quy luật phủ định của phủ định thường được bàn đến khi nói về các mâu thuẫn trong tự nhiên. Đó là theo đúng dự định chủ yếu của quyển sách: điểm 3 của Sơ thảo đề cương chung có nói rằng, sự phát triển bằng mâu thuẫn hay phủ định của phủ định, phát triển theo hình xoáy trôn ốc, cách xem xét như thế phù hợp với sự phát triển khách quan của thế giới. Không thể quan niệm các quy luật cơ bản của phép biện chứng tác động một cách tách rời nhau, tất cả các quy luật đều đồng thời tác động, chỉ có dựa vào cả ba quy luật cơ bản mới có thể giải thích được đúng đắn sự phát triển.

2. Những cặp phạm trù

Chúng ta còn nhớ rằng các quy luật cơ bản đó cũng chỉ có thể giải thích bức tranh của sự phát triển của thế giới về những nét chung chủ yếu mà thôi. Muốn giải thích được tất cả các hiện tượng thì còn phải đưa vào các phạm trù của phép biện chứng duy vật.

Ta hãy xem một số phạm trù phép biện chứng duy vật, trong tác phẩm này Ăngghen nói đến một số cặp phạm trù như đồng nhất và khác nhau, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả. Đó là những cái đối lập chủ yếu và nếu xét tách rời thì chuyển hoá cái này thành cái kia.

2.1. Đồng nhất và khác nhau

Quan điểm siêu hình thừa nhận khả năng có đồng nhất trừu tượng, là đồng nhất hoàn toàn, tuyệt đối cứng nhắc giữa các vật thể. Phép siêu hình coi các đối tượng vốn tự bên trong là bất biến và cho rằng hai trạng thái của một đối tượng cũng có thể tuyệt đối đồng nhất: “Nguyên lý đồng nhất, theo nghĩa của siêu hình học cũ, là nguyên lý cơ bản của thế giới quan cũ: a = a. Mọi vật đều đồng nhất với bản thân. Mọi vật đều đã được coi như vĩnh viễn không thay đổi: hệ thống mặt trời, các tinh tú, các thể hữu cơ. Khoa học tự nhiên đã lần lượt bác bỏ từng điểm của nguyên lý ấy; nhưng trong lĩnh vực lý thuyết nó vẫn tiếp tục tồn tại và những kẻ bênh vực cái cũ luôn luôn đem nó đối lập với cái mới: “một sự vật không thể đồng thời vừa là bản thân lại vừa là cái khác với bản thân”31.

Các nhà siêu hình thường dựa vào kết cấu lô gích hình thức, và cho rằng: Nếu a = a thì không thể a = a. Những người siêu hình quên rằng trong toán học người ta trừu tượng hoá, gạt bỏ những sự khác nhau thực tế giữa các vật. Còn nếu không gạt bỏ những sự khác nhau đó thì trong tự nhiên cũng như xã hội, đều không có sự đồng nhất tuyệt đối. Ăngghen viết: “Khoa học tự nhiên gần đây đã chứng minh một cách tỉ mỉ rằng, sự đồng nhất thật sự, cụ thể bao hàm trong bản thân nó, sự khác biệt, sự biến đổi”32. Và, Ăngghen chứng minh bằng thí dụ cụ thể: Cái cây, con vật, mỗi tế bào, trong mỗi lúc của đời nó và đồng nhất với nó nhưng lại khác biệt với bản thân nó, do sự đồng hoá và bài tiết các chất, do sự hô hấp, sự tạo thành và sự huỷ diệt các tế bào, do quá trình diễn biến của sự tuần hoàn - tóm lại do tổng số các biến đổi không ngừng của các phân tử, tức là các sự biến đổi đã tạo nên sự sống và những kết quả chung của các sự biến đổi đó đã xuất hiện rõ ràng trong những giai đoạn của sự sống: thời bào thai, thời thanh niên, thời phát dục, quá trình sinh sản, thời già nua, chết. Sinh lý học càng phát triển, thì những biến đổi không ngừng, vô cùng nhỏ ấy lại càng trở nên quan trọng hơn đối với nó; do đó cả việc nghiên cứu những khác biệt trong nội bộ sự đồng nhất cũng trở nên quan trọng hơn đối với nó, và quan điểm cũ, hình thức một cách trừu tượng về cái tính đồng nhất, theo đó phải coi vật thể hữu cơ là một cái gì đồng nhất một cách giản đơn với bản thân vật thể đó, là một cái gì bất biến, thì đã tỏ ra lỗi thời”33.

Như vậy là sự đồng nhất trừu tượng chỉ tồn tại trong đầu óc con người do sự trừu tượng gạt bỏ những quá trình thực tế. Sự đồng nhất cụ thể thì có thật trong tự nhiên, và sự đồng nhất cụ thể bao hàm cả sự khác nhau, sự biến đổi. Phép biện chứng quan niệm đồng nhất và khác nhau là hai mặt thống nhất, đan xen vào nhau.

2.2. Ngẫu nhiên và tất nhiên

Cặp phạm trù này trong Phép biện chứng của tự nhiên được nghiên cứu tương đối đầy đủ. Những người siêu hình không hiểu phép biện chứng của ngẫu nhiên và tất nhiên. Ăngghen cho rằng, phép siêu hình lúng túng vì sự đối lập của ngẫu nhiên và tất nhiên và không thừa nhận cái ngẫu nhiên là có tính tất nhiên và cái tất nhiên cũng có tính ngẫu nhiên, coi tất nhiên và ngẫu nhiên là những tính quy định vĩnh viễn, gạt bỏ nhau, hoặc là ngẫu nhiên, hoặc là tất nhiên, không thể vừa là thế này vừa là thế kia. Họ cho rằng trong tự nhiên hoặc có những vật và hiện tượng ngẫu nhiên hoặc những vật và hiện tượng tất nhiên, và không được lẫn lộn hai thứ đó.

Đối với lô gích biện chứng thì sự đối lập tất nhiên và ngẫu nhiên (cũng như của các cặp phạm trù đối lập khác) chỉ có tính chất tuyệt đối trong phạm vi rất hẹp, ngoài phạm vi đó thì không thể nói cái này hoặc là ngẫu nhiên hoặc là tất nhiên vì nó vừa thế này vừa thế kia.

Phép siêu hình không hiểu phép biện chứng của tất nhiên và ngẫu nhiên, do đó cho rằng chỉ có tất nhiên mới đáng được khoa học chú ý và vứt bỏ cái ngẫu nhiên. Ăngghen vạch rõ quan niệm như vậy sẽ đưa tới thuyết định mệnh”, vì như vậy có nghĩa là: “Cái mà người ta có thể quy vào những quy luật, tức là cái mà người ta biết, thì mới là cái đáng chú ý, còn cái mà người ta không quy được vào những quy luật, tức là cái mà người ta không biết, thì là cái không đáng chú ý và có thể gác ra một bên. Nếu thế thì không còn gì là khoa học nữa, vì khoa học phải nghiên cứu chính cái mà chúng ta không biết. Như thế có nghĩa là: cái mà người ta có thể quy vào những quy luật chung thì được coi là tất nhiên, còn cái mà người ta không quy được vào những quy luật đó thì được coi là ngẫu nhiên. Thật dễ thấy rằng đó là cái thứ khoa học giống như cái khoa học coi cái mà nó có thể giải thích được là tự nhiên, và coi cái mà nó không giải thích được là do những nguyên nhân siêu tự nhiên sinh ra; rằng dù tôi có gọi nguyên nhân của những hiện tượng không giải thích được, là ngẫu nhiên hay là trời, thì điều đó cũng hoàn toàn không quan hệ gì tới bản chất sự vật. Cả hai tên gọi ấy đều chỉ chứng tỏ tôi dốt và do đó chúng không có chỗ đứng trong khoa học”34.

Còn có một quan điểm siêu hình khác trái ngược hẳn lại, đó là “thuyết quyết định”. Thuyết này nói chung phủ nhận ngẫu nhiên, cho rằng sở dĩ một hiện tượng nào đó được gọi là ngẫu nhiên chỉ là vì chúng ta không hiểu những nguyên nhân gây nên hiện tượng đó, còn hễ thấy rõ được nguyên nhân thì không có ngẫu nhiên nữa. Thế là lẫn lộn hai khái niệm: tính nhân quả và tính tất nhiên.

Tất cả những hiện tượng của tự nhiên đều không thể không có nguyên nhân, nhưng không phải bất cứ hiện tượng nào cũng là tất nhiên cả. Vì vậy, nếu ta tìm ra nguyên nhân của một hiện tượng ngẫu nhiên thì không phải hiện tượng đó là tất nhiên. Ăngghen phê phán những kẻ máy móc và cũng vạch rõ quan điểm sai lầm này như sau: “Theo quan điểm đó thì trong tự nhiên, chỉ ngự trị có sự tất nhiên trực tiếp đơn giản thôi... Thừa nhận tính tất nhiên như vậy thì chúng ta không bao giờ thoát khỏi quan niệm thần học về giới tự nhiên được. Dù chúng ta gọi cái đó là mệnh trời vĩnh viễn như thánh Ôguyxtanh hay Canvanh, hay gọi là số trời như người Thổ Nhĩ Kỳ, hay gọi là tất nhiên thì cũng chẳng quan hệ gì đối với khoa học cả. Trong tất cả những trường hợp ấy, người ta không đặt vấn đề theo dõi đến cùng cái chuỗi những nguyên nhân; vì thế mà trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta cũng chẳng tiến gì được hơn; cái gọi là tất nhiên vẫn chỉ là một công thức rỗng tuếch do đó... cái ngẫu nhiên cũng vẫn như xưa. Chừng nào chúng ta còn chưa chứng minh được số lượng hạt đậu trong quả đậu phụ thuộc vào cái gì thì chừng đó nó vẫn là ngẫu nhiên; và nếu nói rằng sự việc ấy đã được dự kiến từ trước trong sự cấu tạo nguyên thuỷ của hệ thống mặt trời thì chúng ta chẳng tiến thêm được bước nào. Hơn nữa: cái khoa học định nghiên cứu trường hợp của quả đậu cá biệt đó bằng cách đi ngược lại tất cả cái chuỗi những nguyên nhân của nó, sẽ không còn là khoa học nữa mà chỉ còn là một trò trẻ con; vì bản thân quả đậu ấy vẫn còn vô số những thuộc tính cá biệt khác, mới trông qua thì tưởng là ngẫu nhiên, như sự khác nhau về màu sắc, độ dày và độ cứng của vỏ, độ to của các hạt, đó là chưa nói đến những đặc tính cá biệt mà người ta còn tìm thấy qua kính hiển vi. Do đó chỉ với một quả đậu đó chúng ta cũng đã phải nghiên cứu nhiều mối liên hệ nhân quả đến nỗi tất cả các nhà thực vật trên thế giới cũng không nghiên cứu xuể.

Như vậy là ở đây, tính ngẫu nhiên không được giải thích từ tính tất nhiên, mà trái lại tính tất nhiên lại bị hạ thấp đến mức thành ra là sản vật của tính ngẫu nhiên thuần tuý. Nếu một quả đậu nhất định có 6 hạt, chứ không phải 5 hay 7 là một hiện tượng cùng loại với quy luật vận động của hệ thống mặt trời hay quy luật chuyển hoá năng lượng, thì thực ra như thế không phải là tính ngẫu nhiên được nâng lên trình độ tính tất nhiên, mà là tính tất nhiên bị hạ xuống trình độ tính ngẫu nhiên. Hơn nữa. Người ta có thể tùy ý khẳng định rằng tính nhiều vẻ của các giống và các cá thể hữu cơ và vô cơ tồn tại bên cạnh nhau trong một vùng nhất định là dựa trên một sự tất nhiên bất khả xâm phạm; - đối với cái giống và các cá thể riêng biệt thì tính nhiều vẻ đó vẫn như trước, nghĩa là ngẫu nhiên. Đối với một con vật riêng lẻ thì chỗ nó đẻ, môi trường mà nó tìm được để sống, những kẻ thù uy hiếp nó và số lượng kẻ thù đó là ngẫu nhiên. Đối với một cây mẹ thì nơi mà gió mang hạt của nó đến là ngẫu nhiên; đối với cây con thì nơi mà hạt giống sinh đẻ ra nó gặp miếng đất thuận lợi để nảy mẩm là ngẫu nhiên và nếu tin rằng cả ở đây nữa, tất cả đều đưa trên một tính tất nhiên bất khả xâm phạm, thì như thế chỉ là một sự an ủi yếu ớt mà thôi. Sự tụ tập hỗn tạp các vật thể khác nhau của giới tự nhiên trên một vùng nhất định, thậm chí trên cả trái đất, bất chấp mọi sự quy định nguyên thuỷ và vĩnh viễn, cũng vẫn như cũ... vẫn là ngẫu nhiên”35.

Như vậy, Ăngghen đã nêu một số thí dụ cụ thể để chứng minh rằng trong xã hội và trong tự nhiên đều có hiện tượng ngẫu nhiên. Tiếp theo, Ăngghen dẫn ra Hêghen và trình bày quan niệm biện chứng về tất nhiên và ngẫu nhiên. Ăngghen vạch rõ rằng, tính ngẫu nhiên của các hiện tượng cũng là chính đáng như tính tất nhiên và nếu ta vứt bỏ tính ngẫu nhiên đi thì tính tất nhiên bị hạ xuống thành ngẫu nhiên và như vậy là coi sự thống trị của ngẫu nhiên là quy luật duy nhất của tự nhiên.

Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ăngghen viết rằng: “Ngẫu nhiên chỉ là một cực của sự phụ thuộc lẫn nhau, mà cực kia của nó là tất yếu. Trong giới tự nhiên - ở đấy tựa hồ như tính ngẫu nhiên cũng ngự trị - thì trong mỗi lĩnh vực riêng biệt, chúng ta đã từ lâu chỉ ra tính tất yếu nội tại và tính quy luật nội tại, chúng tự khẳng định trong tính ngẫu nhiên ấy”36.

Trong tác phẩm: Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ăngghen cũng nói ý rằng, cái tất yếu bao gồm vô số cái ngẫu nhiên và cái ngẫu nhiên là hình thức che đậy cái tất yếu. Như vậy, Ăngghen cho rằng ngẫu nhiên là hình thức thể hiện của cái tất nhiên, bản thân cái tất nhiên biểu hiện ra xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên. Hiểu ý đồ này như thế nào? Ăngghen đã nói rõ: Ta lấy ví dụ về sự lan tràn các hạt giống của một thứ cây, ở đây cái gì là tất nhiên? Cái tất nhiên ở đây là thứ cây đó tiếp tục bảo tồn nòi giống của nó. Đó là một quy luật nhất định của tự nhiên mà bất cứ quy luật nào cũng biểu hiện tính tất nhiên. Vì vậy, mỗi một cây đều có một phương thức nhất định riêng để sinh sản. Nhưng việc một hạt của cây đó bay đi như thế nào, tìm thấy mảnh đất nào để nảy mầm thì đó là ngẫu nhiên. Chẳng hạn, hạt của cây đó bay vào đường nhựa thì sẽ hỏng, nếu một con vật tha hạt ấy ra cánh đồng, nó sẽ nảy mầm. Đó là một trường hợp ngẫu nhiên, nhưng chính thông qua tính ngẫu nhiên mà hạt ấy bảo đảm việc sinh sôi nảy nở của giống cây ấy. Hạt nào có đủ điều kiện thì nảy nở, hạt nào không có đủ điều kiện thì chết. Như vậy, tất nhiên có được là qua nhiều ngẫu nhiên.

2.3. Nguyên nhân và kết quả

Tiếp theo, Ăngghen nói về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, đây là những mặt chủ yếu có chuyển hoá lẫn nhau.

Ăngghen vạch rõ thực chất của cặp phạm trù này và khẳng định đó là mặt rất quan trọng của phép biện chứng trong tự nhiên. Khi xem xét vật chất vận động ta thấy có sự liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau giữa các sự vật mà Ăngghen cho rằng mối liên hệ qua lại đó cũng có ở những hành động của con người. Ăngghen viết: “Nhưng chúng ta không chỉ thấy rằng vận động này theo sau vận động khác, mà chúng ta còn thấy rằng chúng ta có thể tạo ra được một vận động nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện nhờ đó mà nó diễn ra trong tự nhiên; thậm chí chúng ta còn thấy rằng chúng ta có thể tạo ra được cả những vận động không hề có trong tự nhiên (công nghiệp) - ít nhất cũng không theo cách ấy - và chúng ta có thể cho những vận động ấy một hướng và một phạm vi định trước. Nhờ đó, nhờ ở hoạt động của con người mà hình thành quan niệm về tính nhân quả, quan niệm về một vận động này là nguyên nhân của vận động khác. Dĩ nhiên là tự nói sự kế tiếp có quy tắc của một số hiện tượng tự nhiên nào đó cũng có thể tạo ra quan niệm về tính nhân quả: nhiệt và ánh sáng xuất hiện cùng với mặt trời, nhưng đấy chưa phải là một bằng chứng và trong phạm vi ấy, chủ nghĩa hoài nghi của Hium đã có lý khi khẳng định rằng post hoc lặp lại một cách thường xuyên không tạo ta được proter hoc. Nhưng hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả”37.

Chú ý một điểm mà Ăngghen nói ở đây khi chúng ta xét các vật nối tiếp nhau thì không nên quan niệm cái trước là nguyên nhân của cái sau. Ví dụ, sau mùa Đông là mùa Xuân, ta không thể nói mùa Đông là nguyên nhân của mùa Xuân. Nguyên nhân của mùa Đông cũng như của mùa Xuân là do sự vận chuyển của quả đất chung quanh mặt trời. Nguyên nhân cũng có nhiều loại, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Vì vậy, phải làm thế nào để vạch ra được nguyên nhân căn bản.

Ăngghen vạch rõ mối liên hệ biện chứng của nguyên nhân và kết quả, sự tác động qua lại giữa chúng: “Tác dụng lẫn nhau là điều thứ nhất mà chúng ta thấy khi chúng ta đứng trên quan điểm của khoa học tự nhiên ngày nay mà xem xét toàn bộ vật chất vận động. Chúng ta thấy hàng hoạt hình thức vận động: vận động cơ giới, nhiệt, ánh sáng, điện, từ, hoá hợp và phân giải hoá học, những sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các trạng thái liên kết, đời sống hữu cơ, tất cả những hình thức ấy - nếu ta hãy tạm thời gạt bỏ đời sống hữu cơ ra - đều chuyển hoá lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau, ở đây là nguyên nhân, ở kia lại là kết quả, thế nhưng trong tất cả những sự thay đổi hình thức ấy, tổng số vận động vẫn y nguyên (công thức của Spinôda: thực thể là nguyên nhân của bản thân nó thể hiện một cách rõ rệt sự tác dụng lẫn nhau”38.

Ở đây Ăngghen nói rõ rằng, nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ cho nhau, nghĩa là một hiện tượng nào đó chỗ này là kết quả chỗ khác lại là nguyên nhân. Cuối cùng, Ăngghen kết luận: “Muốn hiểu được những hiện tượng riêng biệt, chúng ta phải tách chúng ra khỏi mối liên hệ phổ biến và nghiên cứu chúng một cách riêng rẽ, và như thế thì những vận động nối tiếp nhau sẽ biểu hiện ra, cái là nguyên nhân, cái là kết quả”39.

3. Vấn đề lô gích biện chứng

Ăngghen không những xem xét phép biện chứng khách quan của các hiện tượng vật lý mà còn xét cả quá trình lịch sử của sự phản ánh phép biện chứng ấy trong ý thức con người. Ăngghen nêu lên vấn đề lô gích biện chứng, đặc biệt là vấn đề phân loại các phán đoán.

3.1. Phân loại các phán đoán

Để giải thích về biện chứng của tư duy, Ăngghen đã đi sâu phân tích các loại phán đoán. Qua đó Ăngghen đã khái quát được quá trình lịch sử nhận thức của con người.

Ăngghen xác định là nghiên cứu những sự việc cá biệt (đơn nhất) rồi sắp xếp các sự việc theo từng ngành (đặc thù) và sau cùng là khám phá ra những quy luật chung của tự nhiên (phổ biến). Ăngghen viết: “.. Cái mà Hêghen coi là sự phát triển của hình thức tư duy của phán đoán với tính cách là phán đoán, thì ở đây, đã thành ra sự phát triển của những tri thức lý luận của chúng ta về bản chất của vận động nói chung, tri thức dựa trên một cơ sở kinh nghiệm. Chính cái đó chứng minh rằng những quy luật của tư duy và những quy luật của tự nhiên nhất trí với nhau một cách tất nhiên nếu như người ta hiểu chúng một cách đúng đắn.

Chúng ta có thể coi phán đoán thứ nhất là phán đoán đơn nhất: trong phán đoán ấy người ta ghi lấy sự việc đơn nhất là ma sát sinh ra nhiệt. Phán đoán thứ hai có thể coi là phán đoán đặc thù: một hình thức vận động đặc thù nào đấy (hình thức cơ học) đã bộc lộ đặc tính của nó là trong những điều kiện đặc thù (bằng ma sát) chuyển thành một hình thức đặc thù khác của vận động (thành nhiệt). Phán đoán thứ ba là phán đoán phổ biến: bất cứ hình thức vận động nào cũng đều tỏ ra là có thể và phải chuyển thành một hình thức vận động khác. Dưới hình thức này, quy luật đã đạt được sự thể hiện cuối cùng của nó”40.

Từ đó, ta thấy Ăngghen đã phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen về vấn đề này và đặt mối liên hệ của các phán đoán trên lập trường của chủ nghĩa duy vật và Ăngghen đã phê phán sâu sắc thuyết không thể biết, thuyết này coi cái phổ biến là không thể nhận thức được, vì họ đã tách rời cái đơn nhất, cái cá biệt với cái phổ biến, theo họ giữa hai cái đó có một hố sâu ngăn cách không thể vượt qua, con người chỉ có thể nhận thức được cái đơn nhất bằng nhận thức cảm tính mà thôi, không thể nhận thức được cái phổ biến, quy luật của sự vật.

Đó là cách Ăngghen giải quyết một trong những vấn đề quan trọng nhất của lôgích biện chứng, Ăngghen đã làm rõ mối liên hệ qua lại của các hình thức phán đoán và các phạm trù lô gích. Điều rất quan trọng là không phải chỉ giải quyết trong lĩnh vực lô gích thuần tuý, tức khoa học về tư duy, mà giải quyết trong lĩnh vực hoạt động vật chất của con người, trong lĩnh vực thực tiễn.

3.2. Về phương pháp quy nạp

Trong giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đang chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh nghiệm, trào lưu này hướng vào quan điểm của Hium, đi tới chủ nghĩa bất khả tri. Hium phủ nhận phương pháp quy nạp, cho rằng phương pháp này không thể từ kinh nghiệm rút ra được quy luật và cái tất yếu. Ăngghen cho rằng, sự phê phán của Hium có phần hợp lý, song ông cũng không tán thành Hium hoàn toàn phủ nhận vai trò của phương pháp này. Ăngghen chỉ ra rằng, vận dụng phương pháp quy nạp cần phải kết hợp với nhiều phương pháp khác, như kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp v.v. Đặc biệt quan trọng là phải gắn phương pháp đó với hoạt động thực tiễn và thực nghiệm khoa học để đi đến chân lý. Ăngghen viết: “Bằng chứng của tính tất yếu là ở trong hoạt động của con người, trong kinh nghiệm, trong lao động: nếu tôi có thể tạo ra được post hoc, thì nó sẽ trở thành đồng nhất với proter hoc”41, và Ăngghen lại viết: “Nhờ hoạt động của con người mà hình thành quan niệm về tính nhân quả”42.

Như vậy, Ăngghen đã bác bỏ thuyết hoài nghi của Hium, và khẳng định rằng con người thông qua hoạt động thực tiễn đã xác minh sự tồn tại khách quan của tính tất yếu và quan hệ nhân quả.
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?