Nguyễn Anh Tuấn - Triết học với việc xây dựng triết lý giáo dục trong đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay

PGS.TS. NGUY ỄN ANH TUẤN 
Khoa Triết học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội 

1. Phân biệt triết lý giáo dục với triết học giáo dục
Triết lý giáo dục là tư tưởng chỉ đạo giáo dục công dân của một đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể nhằm đạt được những kỳ vọng của đất nước với từng công dân, và trách nhiệm của công dân đối với đất nước.


Triết lý giáo dục bao giờ cũng mang tính lịch sử. Điều này thể hiện ở hai khía cạnh, một là, triết lý phát triển của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau sẽ quy định triết lý giáo dục phải theo nó ở mỗi giai đoạn là khác nhau; hai là, triết lý giáo dục phải được xây dựng từ chính thực tiễn của từng giai đoạn lịch sử, nhằm phù hợp với hoàn cảnh địa lý, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, con người, văn hóa... Không thể áp dụng triết lý của dân tộc này cho dân tộc khác, cũng không thể áp dụng triết lý giáo dục của giai đoạn lịch sử này cho một giai đoạn lịch sử khác. Triết lý giáo dục chỉ có thể là triết lý giáo dục khi nó tồn tại phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, môi trường tự nhiên, xã hội, văn hóa của một đất nước, một dân tộc nào đó mà thôi. Triết lý giáo dục của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại như Platon, Aristotle... khác với triết lý giáo dục của các nhà triết học châu Âu thời kỳ Khai sáng như Vonte, J.J. Rousseu; triết lý giáo dục của J. Dewey ở Mỹ khác với triết lý giáo dục của Minh trị Thiên Hoàng ở Nhật Bản. 

Triết lý giáo dục nằm trong triết lý phát triển của đất nước, là một bộ phận cấu thành nên triết lý phát triển của đất nước. Không thể đặt triết lý giáo dục nằm ngoài triết lý phát triển. Triết lý phát triển chính là định hướng cao nhất để triết lý giáo dục phải theo. Ví dụ: Triết lý phát triển của Nhật Bản là: Công nghệ phương Tây và tinh thần phương Đông. Dẫn đến giáo dục của Nhật Bản đi theo hai hướng rất rõ ràng: một là, bằng mọi giá, bằng mọi phương pháp (kể cả thủ đoạn) để học, học bằng giỏi và làm chủ được khoa học kỹ thuật phương Tây; hai là, bằng mọi cách gìn giữ, phát huy những giá trị tinh thần của phương Đông, lễ nghĩa của Nho giáo, của Thần đạo (tôn giáo bản địa của Nhật Bản), Phật giáo... Triết lý phát triển cho biết dân tộc ấy, đất nước ấy sẽ đi đâu, còn triết học giáo dục sẽ cho biết phải giáo dục đào tạo công dân trong đất nước ấy phải đi như thế nào để tới đích. Đất nước Singapor có diện tích chỉ bằng Hà Nội, gần như không có đất canh tác nông nghiệp, hay để xây dựng những công xưởng lớn sản xuất công nghiệp, cũng không có khai thác tài nguyên thiên nhiên, hầu như phải nhập khẩu toàn bộ lương thực, các nhu yếu phẩm. Rõ ràng, giáo dục và đào tạo ra những công dân làm nông nghiệp là sai, nên họ tập trung phát triển giáo dục, đào tạo nhân công cho những ngành nghề như công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, kinh tế,... với mục tiêu biến Singapor thành trung tâm tài chính và công nghệ cao của châu Á. Và, giáo dục phải cuốn theo triết lý phát triển ấy. Một trong những lựa chọn lịch sử đem lại thành công ngoài mong đợi của nguyên Thủ tướng Lý Quang Diệu là đưa tiếng Anh vào giảng dạy trong trường học, bởi tiếng Anh là quốc tế ngữ, chỉ có tiếng Anh mới đem lại cho công dân của Singapor cơ hội tốt nhất trong giao lưu học thuật, cập nhật thông tin và quan trọng hơn đó là giao tiếp trong công việc với các cường quốc kinh tế. Nguồn chất xám nhờ thế được khơi thông, không còn rào cản ngôn ngữ nữa. Cho đến thời điểm này, có thể nói họ đã thành công. Cách đây hai thập kỷ, thậm chí còn trước đó nữa, Đặng Tiểu Bình, trên cương vị là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã viết một cuốn sách: “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài: Kế lớn trăm năm, chấn hưng đất nước”có thể được xem là tuyên ngôn về triết lý phát triển của Trung Quốc cũng đồng thời là tuyên ngôn đặt vấn đề cho triết lý giáo dục của Trung Quốc. Triết lý giáo dục đó đã được thể hiện bằng hàng loạt các chính sách, biện pháp thiết thực… cho ngành giáo dục. Sự phát triển thần kỳ của Trung Quốc suốt 35 năm qua, để hôm nay chính thức là nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, vượt qua Nhật Bản, Đức, Pháp, đã chứng tỏ triết lý phát triển của họ là đúng. 

Triết lý giáo dục liên quan đến việc xây dựng trí tuệ và nhân cách cho từng công dân. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đặt vấn đề này từ khá sớm. Nếu như Platon, người đầu tiên có triết lý giáo dục, nhấn mạnh việc giáo dục toán học để hướng những công dân của mình thành những kỹ sư, những nhà kỹ thuật, thì Socratle lại muốn công dân phải nghiên cứu thật kỹ phương pháp biện chứng, hướng họ thành những luật sư hoặc những nhà chính trị chuyên nghiệp. Protagoras cho rằng, cả Platon và Socrate đều chỉ tập trung vào nâng cao trí tuệ, kỹ năng lao động mà không tập trung giáo dục đạo đức, luân lý cho công dân là phiến diện, do vậy, ông đề nghị phải tập trung giáo dục đạo đức cho công dân là nhiệm vụ quan trọng nhất. Quan điểm của Nho giáo (Khổng tử, Mạnh tử, Tuân tử) đều nhấn mạnh giáo dục đạo đức, bên cạnh đó, Khổng tử cũng đòi hỏi người quân tử phải giỏi lục nghệ (6 nghề). 

Như vậy, triết học giáo dục có vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng triết lý giáo dục. Đối tượng nghiên của triết học giáo dục là giáo dục. Nhưng không phải là giáo dục nói chung, mà là giáo dục đào tạo theo định hướng của triết lý giáo dục. Có nhiều quan điểm khác nhau về giáo dục trong lịch sử, khiến cho việc xác định đối tượng nghiên cứu của triết học giáo dục cũng chưa có được ý kiến thống nhất. Mỗi đất nước đều cần có triết lý giáo dục của riêng mình, do đó cũng rất cần có hệ thống triết học giáo dục của riêng mình. Đúng như John Dewey đã viết trong Dân chủ và Giáo dục: "Triết học giáo dục không phải là sự áp dụng các tư tưởng có sẵn từ bên ngoài vào một hệ thống thực hành có nguồn gốc và mục đích khác biệt về cơ bản".

Triết học giáo dục là lĩnh vực tri thức nhân văn xuất hiện ở các nước phương Tây cách đây chưa lâu, còn ở nước ta hầu như chưa có các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Sự tìm hiểu sơ bộ các tài liệu nước ngoài cho thấy, Triết học giáo dục là một lĩnh vực nghiên cứu triết học chuyên phân tích những cơ sở của hoạt động sư phạm - giáo dục, mục đích, lý tưởng và phương pháp luận của tri thức sư phạm; các phương pháp thiết kế, xây dựng các thiết chế và hệ thống giáo dục mới. 

Triết học giáo dục bắt đầu mang hình thức thiết chế xã hội vào giữa những năm 40 của thế kỷ XX, khi ở Mỹ và sau đó ở châu Âu những hội chuyên môn về triết học giáo dục đã được thành lập. Nhưng từ xa xưa những tư tưởng triết học giáo dục đã là thành tố không thể thiếu trong học thuyết của các nhà triết học lớn. Chẳng hạn, Platon, Arixtốt, Lôccơ… đã khảo luận những vấn đề giáo dục. Có hẳn một kỷ nguyên phát triển của triết học mà tên gọi của nó đã gắn liền với những lý tưởng Khai sáng (giáo dục). Trong triết học thế kỷ XIX vấn đề giáo dục con người đã từng được coi như vấn đề trung tâm (Goder, Hêghen…). Và trong thế kỷ XX nhiều nhà triết học đã áp dụng các nguyên tắc triết học của mình vào nghiên cứu các vấn đề giáo dục. Triết học, trong khi hướng đến lý luận và thực tiễn sư phạm, đến những vấn đề giáo dục, đã không tự giới hạn ở sự mô tả và suy ngẫm về hệ thống giáo dục hiện tồn, mục đích và các trình độ của nó, mà còn nêu ra những dự án cải tổ và xây dựng hệ thống giáo dục mới với những mục đích và lý tưởng mới. Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX sư phạm học đã được hiểu như là triết học ứng dụng.

Đến giữa thế kỷ XX tình hình đã thay đổi – triết học giáo dục dần tách khỏi triết học chung và bắt đầu có được hình thức thể chế hoá (các hiệp hội và liên đoàn, một mặt, của các nhà triết học nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục, và mặt khác, của các nhà sư phạm hướng đến triết học). Triết học giáo dục tự đặt ra nhiệm vụ khảo sát các phương thức khắc phục những ý kiến khác nhau trong các lý thuyết và quan điểm sư phạm học, tiến hành phân tích có phê phán những nguyên lý và luận điểm xuất phát của các lý thuyết sư phạm khác nhau, vạch rõ những cơ sở nền tảng của tri thức lý luận trong sư phạm, tìm những cơ sở tối hậu có thể làm điểm tựa tập hợp các nhà sư phạm vào các hiệp hội. Đồng thời triết học giáo dục còn đưa ra những định hướng mới để tái tổ chức hệ thống giáo dục, đề xuất những lý tưởng có giá trị mới và những cơ sở cho các tân dự án về các hệ thống giáo dục và cho những trào lưu mới trong sư phạm. Các dự án đó đều khác nhau về mục đích và xu hướng – một số hướng đến việc cải tổ các thể chế giáo dục (từ phổ thông đến đại học), một số khác lại hướng đến giáo dục phổ cập cộng đồng (chẳng hạn, học liên tục suốt đời).

Những nguyên nhân chính làm hình thành triết học giáo dục như là lĩnh vực nghiên cứu triết học đặc biệt bao gồm: 1) việc giáo dục tách ra thành lĩnh vực đời sống xã hội khá độc lập; 2) sự tách biệt tương đối giữa các thể chế giáo dục với nhau; 3) tồn tại các ý kiến giải thích khác nhau về mục đích và lý tưởng giáo dục; 4) những đòi hỏi mới đối với hệ thống giáo dục gắn với việc chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp, xã hội thông tin.

2. Vài nét về giáo dục đào tạo của nước ta trước năm 1975
Xã hội Việt Nam trước năm 1919 chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo dục Nho giáo. Tuy chưa có một triết lý giáo dục rõ ràng, nhưng mục tiêu giáo dục đã được khẳng định: Học nhi ưu tắc sĩ - học giỏi để làm quan. Nhà nước phong kiến rất cần có đội ngũ quan lại hành chính có trình độ để cai trị dân. Xã hội phong kiến Việt Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhưng lại không cần thiết phải đặt ra vấn đề kỹ năng lao động, và hoàn thiện, nâng cao kỹ năng lao động, mặc dù thỉnh thoảng vẫn có những người có học, có tâm huyết với nông nghiệp có đặt vấn đề hoặc đứng ra tổ chức lại các họat động nghề nghiệp (phường, hội...) nhưng đó không phải là chiến lược quốc gia. Chiến lược quốc gia là nông nghiệp, do vậy các nghề khác như: tiều, ngư, mục chỉ là thứ yếu. Một ông quan được triều đình cử ra cũng chỉ thuần túy là người đại diện cho triều đình giữ gìn trật tự trị an, cai quản việc dân làm ăn sao cho ấm no là hoàn thành nhiệm vụ. Từ đó, khiến cho các yếu tố cơ bản của giáo dục cũng được giảm nhẹ đi rất nhiều: Chương trình giáo dục: Nho học nói chung, và các thể loại văn chương hành chính là chính (đó cũng là một nghề), ngoài ra không có một hệ thống trường quy nào dạy nghề. Các kỹ năng lao động hầu như được dạy theo lối truyền khẩu, kinh nghiệm, cầm tay chỉ việc. Các kỹ xảo lao động luôn là một thứ tài sản riêng gia truyền không được truyền bá rộng rãi, do vậy, những cải tiến về phương pháp lao động, công cụ lao động, sản phẩm lao động không có sự tham gia của cộng đồng mà chỉ mang dấu ấn cá nhân, dòng họ, cùng lắm là phường hội. Cũng với những mục tiêu đó, khiến cho quan niệm về những nghề khác, không phải là nghề làm quan, là những nghề hạ đẳng. Điều này cũng lý giải tại sao khoa học kỹ thuật của phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng không phát triển. Giáo dục Nho giáo thậm chí còn tỏ ra kỳ thị với khoa học kỹ thuật. Vua Tự Đức sau khi nghe Nguyễn Trường Tộ nói về khoa học kỹ thuật của Pháp sau một chuyến đì về kể lại còn cho rằng đó là những thứ quái dị, và Nguyễn Trường Tộ còn bị kết tội vì đem những điều mắt thấy tai nghe đó mang về mê hoặc triều đình. Có một số nghề, mà ai đó trót theo, cũng khiến cho con cái không được phép thi cử để làm quan ở triều đình, ví dụ nghề ca xướng; Sách giáo khoa thì quanh đi quẩn lại cũng chỉ có: Tứ thư, Ngũ kinh, thêm vài ba bộ sử của Trung Quốc. Phương pháp giáo dục: thày đọc - trò ghi, học thuộc lòng, học vẹt. Cũng chính vì mục tiêu giáo dục là đào tạo quan lại, nên việc giáo dục đạo đức hết sức quan trọng, thậm chí rất khắt khe. Mỗi vị quan cần phải là một tấm gương đạo đức để dân noi theo, mỗi vị quan được quan niệm là cha mẹ dân, phải kiêm thêm chức năng giáo hóa dân. Hệ thống trường lớp nhằm giáo dục và bồi dưỡng nhân tài được các vị vua chủ trương phát triển tương đối bài bản, có chính sách ưu đãi cho cả thày lẫn trò. Với mục tiêu là tuyển chọn nhân tài, nên ngoài việc lựa chọn qua các kỳ thi chính thức do triều đình tổ chức, còn có chế độ tiến cử và bổ nhiệm đặc cách.

Thời thuộc Pháp, hệ thống giáo dục do chế độ thực dân áp đặt lên đất nước ta hầu hết nhằm mục đích đào tạo đội ngũ công chức (thư ký, phiên dịch) phục vụ cho chính quyền thực dân. Với mục đích như vậy, nên chương trình giáo dục và sách giáo khoa đều nhằm tuyên truyền cho lịch sử, văn hoá… và đặc biệt là ngôn ngữ của  “nước mẹ”Pháp.

Các phong trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục, Văn hoá mới… nhằm chấn hưng dân trí và bồi dưỡng dân khí thực chất là các triết lý giáo dục khác nhau. Ngưỡng mộ sự phát triển của Nhật Bản, một đất nước đồng chủng đồng văn với chúng ta, Phan Bội Châu mới khởi xướng phong trào Đông du, nhằm học theo mô hình phát triển của Nhật Bản và triết lý giáo dục của Nhật Bản những mong có thể áp dụng vào thực tế nước nhà. 

Giáo dục của miền Nam Việt Nam trước năm 1975, xét một cách hết sức khách quan là khá tiến bộ. Bỏ qua những vấn đề liên quan đến ý thức hệ, chỉ thuần túy nhìn vào chương trình đào tạo từ bậc tiểu học cho đến đại học, có nhiều nội dung cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta chưa đạt được. Ví dụ, bậc tú tài (từ lớp 10 - 12) tương đương với bậc THPT của chúng ta hiện này đã được dạy tương đối kỹ và có hệ thống về luận lý học, đạo đức học, tâm lý học (những môn cơ bản của phân ban Triết). Từ những năm 70 của thế kỷ XX, họ đã biết đến nhiều phương pháp kiểm tra, đánh giá rất mới, mà chúng ta hiện này mới sử dụng được một vài năm, như phương pháp trắc nghiệm khách quan. Đem so sánh hệ thống giáo trình, sách giáo khoa của họ với môn Giáo dục công dân của chúng ta hiện nay, thấy khác xa... Những phân ban khác như Văn học, Lịch sử cũng trong tình trạng tương tự. Những môn khoa học tự nhiên thì tôi chưa có điều  kiện khảo sát nên chưa kết luận. Chưa kể, tốt nghiệp bậc tú tài, đồng nghĩa với việc nói tiếng Anh làu làu. Đối với bậc giáo dục đại học, một bộ phận chịu ảnh hưởng của mô hình Pháp (tiêu biểu là Viện Đại học Sài Gòn), một bộ phận khác muộn hơn chịu ảnh hưởng của mô hình Mỹ.

Ở miền Bắc, sau Hiệp định Geneve, mô hình giáo dục của chúng ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của mô hình Liên Xô cũ, các bậc học từ Tiểu học cho đến hết Trung học phổ thông, thay đổi hoàn toàn so với mô hình giáo dục của Pháp trước đó. Bậc Đại học thì một phần vẫn còn ảnh hưởng của Pháp, như trường Đại học Y, Đại học Dược, Đại học Bách khoa, Đại học tổng hợp. Một số trường Đại học khác được lập ra để phù hợp với mục tiêu phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, đào tạo nguồn nhân lực theo chỉ tiêu (hiện nay vẫn còn), như trường Đại học Kinh tế kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế quốc dân), Tài chính, Thương mại, Cao đẳng Pháp lý (nay là Đại học Luật)... Ví dụ, Bộ Thương mại năm nay cần 50 chỉ tiêu, thì trường đào tạo và phân công công tác theo đúng chỉ tiêu đó. Hệ luỵ của hệ thống trường này hiện nay vẫn còn, một số trường chuyển mình nhanh đào tạo được một số lượng nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được nhu cầu của xã hội theo định hướng phát triển mới, như Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Luật, một số trường khác phải mở thêm các khoa khác tương tự với các trường khác thì mới có đủ sinh viên...

Sự chuyển mình của giáo dục đào tạo bậc đại học diễn ra khá phức tạp, trong đó không ít trường, nhất là hệ thống trường dân lập mở ra với mục tiêu vụ lợi nhiều hơn là mục tiêu giáo dục đào tạo thuần tuý. Vấn đề này chúng ta trở lại ở phần sau.

Giáo dục đào tạo bậc phổ thông đến nay đã thay đổi mô hình đến 3 lần, tất nhiên mỗi lần đều có những lý do (triết lý riêng), mà nhìn rõ nét nhất là các lần thay sách giáo khoa. Dự kiến đến năm 2015 sẽ tiếp tục thay sách giáo khoa, nhưng đến nay chương trình vẫn chưa được thông qua vì vẫn chưa tìm ra được triết lý giáo dục thích hợp. Thiếu một tổng công trình sư để chỉ huy kiến thiết xây dựng ngôi nhà giáo dục Việt Nam. 

3. Thực trạng của triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay
Nói thẳng ra rằng, hiện nay chúng ta chưa có một triết lý giáo dục nào rõ ràng. Ngành giáo dục đào tạo của chúng ta hiện nay giống như một người đang đẽo cày giữa đường. Ý kiến bàn luận về thực trạng của ngành giáo rất nhiều, trên nhiều lĩnh vực, phương pháp giảng dạy, chương trình, cơ chế, giáo trình... Nhưng chưa ai, chưa đơn vị nào đưa ra được một triết lý giáo dục rõ ràng, đặc biệt là những đơn vị nghiên cứu "ruột”của Bộ Giáo dục và Đào tạo, như Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Quan trọng hơn, tư duy của một số vị lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo theo nhiệm kỳ, tính kế thừa rất thấp. Người trước xây, người sau phá đi xây lại cái mới. Thực thể giáo dục luôn luôn bị đưa ra thí nghiệm, khiến nó cứ ốm đau quặt quẹo, dung mạo dị dạng chẳng giống ai. Lúng túng và bế tắc là hai từ mô tả đầy đủ nhất vế thực trạng giáo dục hiện nay. Suy cho cùng, cũng chỉ do chưa có một triết lý giáo dục rõ ràng. Chưa có triết lý giáo dục rõ ràng, bởi triết lý phát triển đất nước chưa rõ ràng. Khẩu hiệu "tiến lên chủ nghĩa xã hội”không phải là triết lý phát triển, mà là khẩu hiệu chính trị.

Như vậy, để xây dựng được một triết lý giáo dục của nước ta hiện nay, điều tiên quyết là chúng phải có triết lý phát triển đất nước dài hạn, vững chắc, ổn định.

Một câu hỏi tức khắc đặt ra: Chẳng lẽ, trong bối cảnh chưa có triết lý phát triển, thì không có triết lý giáo dục hay sao? Về nguyên tắc hệ thống đúng là như vậy, và thực tế giáo dục của chúng ta đang diễn ra đúng như vậy. Từ giáo dục Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đến Đại học, thậm chí cao hơn là cao học và nghiên cứu sinh đang ở trong tình trạng vận động giống chuyển động Brao-nơ. Các giải pháp tình thế liên tục được đưa ra, nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời, bởi bưng bít chỗ nọ thì lại bục ở chỗ kia. Giải pháp mang tính toàn cục, hệ thống chưa có. 

Có thể đặt vấn đề: Có triết lý giáo dục trước mới xây dựng triết lý phát triển sau được không? Đây cũng là phương pháp nêu ý kiến của nhiều nhà khoa học quan tâm đến triết lý giáo dục.

Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục 2009-2020: 

1. Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Phát triển nền giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu.
3. Giáo dục vừa đáp ứng yêu cầu xã hội, vừa thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân, mang đến niềm vui học tập cho mỗi người và tiến tới một xã hội học tập.
4. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền giáo dục giàu tính nhân văn, tiên tiến, hiện đại
5. Phát triển dịch vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục.
6. Giáo dục phải đảm bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn hạn hẹp (trích).

Những vấn đề nói trên vừa thiếu lại vừa thừa. Nó như một thứ “lẩu thập cẩm”của những món ăn trái vị. Thực ra, có viết thêm vài dòng nữa cũng chưa nói lên được đầy đủ những cái mà đất nước chúng ta đang đòi hỏi ngành Giáo dục phải trả lời. Để xây dựng được chiến lược giáo dục trong vòng 10 năm nữa, thậm chí phải dài hơi hơn nữa, rất cần có chiến lược phát triển đất nước rõ ràng. Nếu như coi giáo dục là nơi chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển đất nước thì cần phải biết nguồn nhân lực ấy sẽ làm công việc gì là chính trong vòng 10 – 20 năm nữa. Từ đó, mới xác định dạy cái gì, dạy như thế nào, dạy bằng phương pháp nào…     

Triết lý giáo dục cần tới triết học với tư cách là thế giới quan và phương pháp luận cho viêc nhận thức kiến thức, hoàn thiện kỹ năng và thái độ của công dân với bản thân, gia đình và cộng đồng.
Với tư cách là một trong những khoa học cơ bản xây dựng nên triết lý giáo dục, nhiệm vụ chính của triết học giáo dục là phải xác định được:

1. Bản chất của giáo dục là gì?
2. Chức năng của giáo dục là gì?
3. Mục đích của giáo dục là gì?
4. Các yếu tố cấu thành nên giáo dục là gì?
5. Cơ cấu của giáo dục là gì?
6. Cơ chế giáo dục là gì?
7. Phương pháp giáo dục là gì?
[…]      

4. Vai trò của triết học thế nào trong việc xây dựng triết lý giáo dục
Chúng ta đã bước vào một thời đại mới, thời đại thông tin, công nghệ cao, tạo nên biết bao biến đổi sâu sắc, to lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó nổi bật lên là toàn cầu hoá, hội nhập và mở cửa, thời đại của kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức đang được đánh giá sẽ là cơ sở hạ tầng của xã hội học tập. Đối mặt với những biến đổi xã hội chưa từng có, loài người cũng đồng thời hy vọng thế kỷ này sẽ là thế kỷ của văn hóa hoà bình, hợp tác và phát triển với lòng mong muốn sẽ thực hiện được ước mơ dân chủ tự do công bằng hơn thế kỷ trước. 

Mỗi quốc gia đều có một nền giáo dục riêng dựa trên một nền “triết học giáo dục”xác định, qua đó góp phần tạo dựng “diện mạo”của quốc gia đó, đặc biệt là trong tương lai. Trong bối cảnh tiếp biến văn hóa toàn cầu, việc tiếp thu những thành tựu văn hóa thế giới là điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập mà không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc riêng của mình. Suy cho cùng công việc quyết định nhất của xã hội chính là giáo dục mọi người thành người, làm người và ở đời: làm cho mọi người thành nhân cách có văn hóa. Giáo dục và tự giáo dục thành người, làm người, trước hết là hình thành cho được ở mỗi người tư cách đạo đức, tính cách cùng năng lực và tài năng.  Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, tương lai, vị thế của dân tộc ta phụ thuộc vào thế hệ trẻ, vào việc học tập của thế hệ trẻ. Giáo dục nhân cách văn hóa theo tư tưởng của Bác phải là nhiệm vụ trung tâm của toàn bộ sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nước nhà đi vào thế kỷ XXI, làm cho sản phẩm của nó là con người Việt Nam phải là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam. 

Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Chính vì vậy muốn bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta cần phải có một chiến lược giáo dục riêng dựa chắc trên triết học giáo dục mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Muốn vậy thì chúng ta phải xây dựng triết học giáo dục không những nhờ kế thừa những tinh hoa triết lý giáo dục của dân tộc Việt Nam mà còn nhờ tiếp nhận có chọn lọc và phát triển sáng tạo những thành tựu triết học giáo dục của các dân tộc khác, sau đó là hình thành triết học giáo dục với tư cách một bộ môn nhân văn làm cơ sở để biến dân tộc ta thành một dân tộc thông thái, có dân trí cao và thông minh, đủ sức xây dựng cho mình cuộc sống ấm no, hạnh phúc.  

Thực trạng giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay đang có rất nhiều vấn đề, thậm chí có những vấn nạn rất bức xúc, mặc dù từ khi đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trước thách thức của xã hội hiện đại, nếu người Việt vẫn học theo kiểu một nhà Nho, hay theo kiểu một anh học trò trích cú tầm chương, thì sự học ấy cũng chưa chắc mang lại hiệu quả thiết thực. Cần phải thích ứng như thế nào với xã hội hiện đại, để giáo dục Nước nhà thực sự định hướng cho người Việt ta phát huy được những nét đặc sắc của văn hóa truyền thống, có đủ năng lực nắm bắt cơ hội để phát triển trong xã hội hiện đại. Muốn vậy thì việc đầu tiên là ta cũng phải xây dựng một triết học giáo dục hiện đại bắt kịp sự phát triển chung của thế giới. 

Nhìn ra bên ngoài, như trên đã phân tích, bước vào thế kỷ XXI những xu hướng chung của triết học giáo dục là: 1) ý thức được khủng hoảng của hệ thống giáo dục và tư duy sư phạm như là biểu hiện của tình huống khủng hoảng tinh thần ở thời đại ngày nay; 2) những khó khăn trong việc xác định các lý tưởng và mục đích của giáo dục phù hợp với những đòi hỏi mới của văn minh khoa học công nghệ và xã hội thông tin đang hình thành; 3) sự xích lại gần hơn giữa các trào lưu triết học giáo dục khác nhau; 4) tìm kiếm những quan niệm triết học mới có thể luận chứng tốt cho hệ thống giáo dục, lý luận và thực tiễn sư phạm. Có lẽ, đây cũng là những vấn đề của Việt Nam đứng trước những khó khăn thách thức trong lĩnh vực giáo dục, như các nước phát triển khác. Nhưng đó cũng là cơ hội để chúng ta hoà cùng với thế giới trong những suy tư về giáo dục. Song trước hết chúng ta phải hiểu biết đầy đủ, khách quan về tình hình những nghiên cứu triết học giáo dục của họ để nỗ lực bắt kịp và sau đó là song hành đi cùng họ.

Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?