Tư duy Hậu hiện đại và những bậc thầy tư duy
I) Jacque Lacan: Vô thức, ngôn ngữ, chủ thể
Jacque Lacan (1901-1981), kế tục S. Freud, là nhà tâm phân học có ảnh hưởng đến giới lý luận phê bình văn học nhiều nhất ở phương Tây. Nếu S. Freud dùng phương pháp khoa học thực nghiệm để thiết lập ra môn Tâm phân học (Psychoanalysis) mang đầy tính chất hiện đại, thì J. Lacan đã vận dụng ngôn ngữ học vào tâm phân học, chuyển hẳn sang tính chất hậu hiện đại.
Thời sinh viên J. Lacan theo học tâm phân học và triết học cả ở Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Paris. Ra trường, ông vừa giảng dạy tâm phân học vừa chữa bệnh tâm thần. Với khẩu hiệu “trở về với S. Freud”, từ năm 1951 trở đi, hàng tuần ông đều công khai chủ trì một cuộc hội thảo khoa học, và từ năm l964 lại sáng lập và lãnh đạo “Trường phái S. Freud ở Paris”, cả hai việc đều kéo dài đến lúc cuối đời. Trong thực tế, tâm phân học của J. Lacan từ chỗ kết hợp với ngôn ngữ học như đã nói trên, hơn nữa còn tiến lên vận dụng cả chủ nghĩa cấu trúc, hình thành nên tâm phân học cấu trúc, rồi không phải ngẫu nhiên mà cuối đời ông đã ly khai với Hội tâm phân học quốc tế. Công trình chủ yếu gồm có: Trước tác1937-1966 (1966); Bốn khái niệm cơ bản của tâm phân học (1973); Cái tôi trong lý thuyết của S. Freud và trong kỹ thuật của tâm phân học (1978); Tập luận văn về ngôn ngữ với tâm phân học (1981), v.v... Trên ý nghĩa trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan với lý luận phê bình văn học nghệ thuật, có thể triển khai lý thuyết của J. Lacan theo các vấn đề cấu trúc ngôn ngữ của vô thức, chủ thể manh nha và song hành với vô thức, phương pháp bóc trần những trá hình chủ quan, v.v…
1) Cấu trúc ngôn ngữ của vô thức
Thời sinh viên J. Lacan theo học tâm phân học và triết học cả ở Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Paris. Ra trường, ông vừa giảng dạy tâm phân học vừa chữa bệnh tâm thần. Với khẩu hiệu “trở về với S. Freud”, từ năm 1951 trở đi, hàng tuần ông đều công khai chủ trì một cuộc hội thảo khoa học, và từ năm l964 lại sáng lập và lãnh đạo “Trường phái S. Freud ở Paris”, cả hai việc đều kéo dài đến lúc cuối đời. Trong thực tế, tâm phân học của J. Lacan từ chỗ kết hợp với ngôn ngữ học như đã nói trên, hơn nữa còn tiến lên vận dụng cả chủ nghĩa cấu trúc, hình thành nên tâm phân học cấu trúc, rồi không phải ngẫu nhiên mà cuối đời ông đã ly khai với Hội tâm phân học quốc tế. Công trình chủ yếu gồm có: Trước tác1937-1966 (1966); Bốn khái niệm cơ bản của tâm phân học (1973); Cái tôi trong lý thuyết của S. Freud và trong kỹ thuật của tâm phân học (1978); Tập luận văn về ngôn ngữ với tâm phân học (1981), v.v... Trên ý nghĩa trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan với lý luận phê bình văn học nghệ thuật, có thể triển khai lý thuyết của J. Lacan theo các vấn đề cấu trúc ngôn ngữ của vô thức, chủ thể manh nha và song hành với vô thức, phương pháp bóc trần những trá hình chủ quan, v.v…
1) Cấu trúc ngôn ngữ của vô thức
Năm 1953 trong bài Phạm vi và chức năng của ngôn ngữ và ngữ ngôn trong tâm phân học, J. Lacan đã phê phán quan niệm “cái biểu đạt” với “cái được biểu đạt” gắn chặt như hai mặt trên một tờ giấy của F. Saussure, và khẳng định chúng nằm trong những bình diện độc lập với nhau. Cái biểu đạt thật ra không biểu đạt cái gì xác định, nó tự do phiêu dạt, còn cái được biểu đạt cũng luôn chuyển động(1). Theo J. Lacan, cái biểu đạt, có nghĩa là đã diễn đạt ra được rồi, thì chính là ý thức, còn cái được biểu đạt thì chính là cái vô thức chưa biết. Vận dụng ngôn ngữ học vào phân tâm học chính là giải thích cái vô thức bằng cái biểu đạt có tính chất ý thức.
Nói vô thức có cấu trúc ngôn ngữ bởi vì vô thức, theo J. Lacan chẳng qua là cái được che đậy đằng sau ý thức, nó ẩn tàng ở nơi sâu kín trong tâm linh của con người, tất yếu mang ý nghĩa của một loại ngôn ngữ nội tại. Cho nên không chỉ phân tích vô thức trên bình diên tâm sinh lý, mà còn phải với góc độ ngôn ngữ học. Mặc dù đã tập trung nghiên cứu rất có hệ thống, nhưng với S. Freud vô thức chỉ là một loại mô thức chìm sâu trong tư duy của con người, một thực thể vốn có, nhưng tồn tại như một vương quốc mịt mờ. Ở đó bản năng con người tha hồ thao túng, lắm khi vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ý thức mà chuyển biến thành chính ý thức. Con người không thể nào trực tiếp nhận thức và nắm bắt được vô thức. Tất nhiên S. Freud cũng đã từng xem những “ngưng tụ” (condensation), “chuyển dịch” (displacement) trong những gíấc mơ hay chuyện tếu với tư cách là những tật chứng ngoại hiện của vô thức như những ẩn dụ (metaphor) hay hoán dụ (metonymy) trong ngôn ngữ để giải thích. Tiếp bước S. Freud, J. Lacan khẳng định vô thức cũng giống như những ẩn dụ hoặc hoán dụ trong ngôn ngữ, có thể căn cứ vào ngữ cảnh (context) để giải thích. Ẩn dụ chẳng qua là dùng một cái biểu đạt thay thế một cái biểu đạt khác đang bị ức chế. Hoán dụ là dùng cái biểu đạt này thay mặt cho cái biểu đạt kia. Ngôn ngữ của cái biểu đạt tuy là có ý thức, nhưng là ý thức nhằm che đậy cái được biểu đạt là những dục vọng vô thức bên trong với tư cách là những động lực luôn luôn có ý hướng muốn chi phối, bộc lộ, cho nên tất yếu sẽ tạo nên những khoảng trống, những độ vênh, những chỗ nhấn trong dây chuyền của cái biểu đạt. Tính hệ thống của những điều này làm nên cấu trúc ngôn ngữ của cái vô thức. Và giải mã vô thức bằng ngôn ngữ học là vì vậy.
2) Chủ thể manh nha và song hành cùng vô thức
2) Chủ thể manh nha và song hành cùng vô thức
Trong hệ thống lý thuyết của J. Lacan có một khái niệm quan trọng là “giai đoạn ảnh trong gương”. Trẻ con mấy tháng tuổi chưa có cảm giác hoàn chỉnh về chính thân thể của mình, xem tay chân như những vật thể bên ngoài, thậm chí còn mút ngón tay, ngón chân, chưa có thể nghiệm gì, chỉ có những cảm xúc của bản năng tự vệ, nghĩa là gần như hoàn toàn vô thức. Nhưng một quá trình dần dần được biết về mình, sẽ diễn ra đối với trẻ, tất nhiên chủ yếu với trạng thái bị động. Bản thân mình đối với trẻ trong trường hợp này, hoá ra là cái cần được biểu đạt, phải bị động chờ đợi những cái biểu đạt bên ngoài đến xác định. J. Lacan quan sát khi trẻ con chừng sáu tháng thấy ảnh trong gương di động theo bản thân thì rất thích thú, liền bò tới sát gương sờ soạng lên ảnh như muốn biết rõ đây là ai, rồi vô cùng hoan hỉ dần dần cảm thấy được đó chính là mình. Đó là bước quá độ đầu tiên từ vô thức chuyển sang ý thức, nhưng chưa phải là ý thức hoàn toàn, bởi vì ảnh trong gương vẫn là ảo ảnh, chứ đâu phải là bản thân đích thực của trẻ, và hẳn là trẻ chưa có thể phân biệt được điều đó. Tuy nhiên sự nhận biết sơ khởi này vẫn vô cùng quan trọng. Cứ xem trong trạng thái tâm thần phân liệt, hoàn toàn vô thức, không gợn lên được nhân tố nào của ý thức, các con bệnh đã, chẳng hạn, xem cùi tay như lỗ mũi, có lúc tự xưng là Napoléon, có khi lại diễn vai hề, v.v… thì đủ rõ. Trẻ con dù mới chỉ nhận biết mình qua hình ảnh trong gương, nghĩa là rất sơ khởi, rất không đầy đủ, còn ngộ nhận, nhưng vẫn không có những biểu hiện rối loạn thần kinh nói trên. Vả chăng khái niệm “hình ảnh trong gương” của J. Lacan còn có tính chất ẩn dụ. Theo nghĩa rộng nó chính là một “kẻ khác” rất thiết thân với mình, qua họ, có thể nhận biết thêm bản thân, chẳng hạn qua bà mẹ. Qua sự ngắm nhìn, mỉm cười, vỗ về, hôn hít của người mẹ, đứa con như được ý thức thêm về mình. Quả vậy, chỉ cần quan sát những trẻ con lớn lên trong côi cút thường nhút nhát thiếu tự tin thì đủ rõ.
J. Lacan gọi “hình ảnh trong gương” là “thế giới tưởng tượng” theo nghĩa trẻ con tưởng là thật một điều không có thật. Khi sờ soạng, xoa đi xoa lại có va chạm được thứ gì đâu trên mặt gương, nhưng cảm thấy là mình, thì tất yếu phải có yếu tố tưởng tượng. Nói theo danh từ là trẻ con đã đem cái được biểu đạt là mình gán ghép trên cái biểu đạt là hình ảnh trong gương, và do đó, chủ thể vẫn lẩn quất trong thế giới vô thức. Nhưng rồi chả bao lâu, trẻ con biết nói, và thế là giai đoạn hình ảnh trong gương được tiếp nối bằng giai đoạn ngôn ngữ, và J. Lacan cho rằng “thế giới tưởng tượng” bắt đầu chuyển hoá sang “thế giới tượng trưng”. Vì ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, nhờ đó con trẻ ngày càng biết được xiết bao điều trong thế gian rộng rãi bao la. Nghĩa là con trẻ đã đi dần vào đời sống văn hoá xã hội, qua đó xác định được dần bản thân với ý thức đầy đủ, nhưng vẫn không thoát khỏi vô thức. Ở đây trước hết cần lưu ý rằng J. Lacan không phân biệt vô thức với ý thức theo cấp độ cao thấp, mà cho chúng luôn luôn song hành, (thậm chí có những hiện tượng, nhìn ở góc độ này là vô thức, nhưng liền chuyển hoá thành ý thức, nếu nhìn ở góc độ khác).
Quả vậy, con người trưởng thành có nghĩa là ý thức ngày càng trở nên sâu rộng, phong phú, phức tạp, nhưng không khi nào có thể hoàn toàn thoát khỏi trạng thái vô thức, hay nói một cách khác, con người khi nào ít nhiều được phân biệt qua hai trạng thái ý thức và vô thức. J. Lacan đã chứng minh điều này ngay trong trường hợp con người tự nói về mình. Khi chúng ta nói “Tôi là thế nào, tôi làm gì, v.v…” và đều ngộ nhận rằng “Tôi” là đại biểu cho bản thân trăm phần trăm. Tất nhiên ở đây không bàn chuyện đạo đức, nói dối hay nói thật, v.v... mà chỉ bàn về tâm lý thể hiện trên bình diện ngữ dụng. Vận dụng ngôn ngữ học hiện đại J. Lacan cho rằng con người thường ngộ nhận “chủ thể trong ngôn từ” (tức chủ ngữ trong câu nói) với “chủ thể phát ngôn”. Khi chúng ta nói: “Tôi thế này, thế kia…” thì trên thực tế, chúng ta đã lùi lại một bước, gián cách bên ngoài, để tả hoặc kể “Tôi” như thế nào mà thôi, chứ không phải trực tiếp bộc lộ hoặc biểu hiện gì cả. “Tôi” vẫn là chủ ngữ trong câu nói, nhưng trong ngữ cảnh, thực tế đã trở thành tân ngữ, mặc dù nó vẫn là chủ thể phát ngôn. Nói cho cùng, không phải ngẫu nhiên, “Tôi” chỉ là một đại từ, nghĩa là một vật thay thế. Mà đã thay thế được, thì có thể bằng những cách dùng từ khác nhau, chứ không nhất thiết là “Tôi”, như nói với con cái thì xưng bố, mẹ, nói với hạ thần, thì xưng trẫm, v.v...
Việc nhầm lẫn giữa chủ thể trong ngôn từ với chủ thể phát ngôn này rất phổ biến, ngay cả Descartes với câu: “Tôi tư duy tức tôi tồn tại”. Tất nhiên đây là chân lý trong triết học (duy lý), nhưng là sai lầm về mặt ngữ dụng học. Bởi vì nếu quả thực là mình đang suy nghĩ, thì không thể nào đồng thời có thể lộ diện tả và kể lại những điều mình đang suy nghĩ. Còn nếu đang đứng ra tả và kể lại những điều mình suy nghĩ, thì có nghĩa là mình đang không tư duy gì thêm nữa, chỉ thuật lại những cái vốn đã được tư duy rồi. Cho nên, Lacan đã chữa lại câu của Descartes thành: “Tôi tư duy thì tôi không tồn tại, Tôi tồn tại thì tôi không tư duy”. Sự nhầm lẫn rất tự nhiên và sâu rộng như vậy, chứng tỏ vô thức tồn tại ngay trong ngôn ngữ, một sản phẩm tất yếu và vĩnh hằng của xã hội loài người. Và xưng tôi, nhưng không phải đang là tôi thực sự và trọn vẹn, chứng tỏ cái biểu đạt không phải tương ứng với cái được biểu đạt theo quan niệm của chủ nghĩa cấu trúc, và tư tưởng của J. Lacan đã góp phần mở đầu cho chủ nghĩa giải cấu trúc.
3) Phương pháp lột trần những trá hình chủ quan
J. Lacan gọi “hình ảnh trong gương” là “thế giới tưởng tượng” theo nghĩa trẻ con tưởng là thật một điều không có thật. Khi sờ soạng, xoa đi xoa lại có va chạm được thứ gì đâu trên mặt gương, nhưng cảm thấy là mình, thì tất yếu phải có yếu tố tưởng tượng. Nói theo danh từ là trẻ con đã đem cái được biểu đạt là mình gán ghép trên cái biểu đạt là hình ảnh trong gương, và do đó, chủ thể vẫn lẩn quất trong thế giới vô thức. Nhưng rồi chả bao lâu, trẻ con biết nói, và thế là giai đoạn hình ảnh trong gương được tiếp nối bằng giai đoạn ngôn ngữ, và J. Lacan cho rằng “thế giới tưởng tượng” bắt đầu chuyển hoá sang “thế giới tượng trưng”. Vì ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, nhờ đó con trẻ ngày càng biết được xiết bao điều trong thế gian rộng rãi bao la. Nghĩa là con trẻ đã đi dần vào đời sống văn hoá xã hội, qua đó xác định được dần bản thân với ý thức đầy đủ, nhưng vẫn không thoát khỏi vô thức. Ở đây trước hết cần lưu ý rằng J. Lacan không phân biệt vô thức với ý thức theo cấp độ cao thấp, mà cho chúng luôn luôn song hành, (thậm chí có những hiện tượng, nhìn ở góc độ này là vô thức, nhưng liền chuyển hoá thành ý thức, nếu nhìn ở góc độ khác).
Quả vậy, con người trưởng thành có nghĩa là ý thức ngày càng trở nên sâu rộng, phong phú, phức tạp, nhưng không khi nào có thể hoàn toàn thoát khỏi trạng thái vô thức, hay nói một cách khác, con người khi nào ít nhiều được phân biệt qua hai trạng thái ý thức và vô thức. J. Lacan đã chứng minh điều này ngay trong trường hợp con người tự nói về mình. Khi chúng ta nói “Tôi là thế nào, tôi làm gì, v.v…” và đều ngộ nhận rằng “Tôi” là đại biểu cho bản thân trăm phần trăm. Tất nhiên ở đây không bàn chuyện đạo đức, nói dối hay nói thật, v.v... mà chỉ bàn về tâm lý thể hiện trên bình diện ngữ dụng. Vận dụng ngôn ngữ học hiện đại J. Lacan cho rằng con người thường ngộ nhận “chủ thể trong ngôn từ” (tức chủ ngữ trong câu nói) với “chủ thể phát ngôn”. Khi chúng ta nói: “Tôi thế này, thế kia…” thì trên thực tế, chúng ta đã lùi lại một bước, gián cách bên ngoài, để tả hoặc kể “Tôi” như thế nào mà thôi, chứ không phải trực tiếp bộc lộ hoặc biểu hiện gì cả. “Tôi” vẫn là chủ ngữ trong câu nói, nhưng trong ngữ cảnh, thực tế đã trở thành tân ngữ, mặc dù nó vẫn là chủ thể phát ngôn. Nói cho cùng, không phải ngẫu nhiên, “Tôi” chỉ là một đại từ, nghĩa là một vật thay thế. Mà đã thay thế được, thì có thể bằng những cách dùng từ khác nhau, chứ không nhất thiết là “Tôi”, như nói với con cái thì xưng bố, mẹ, nói với hạ thần, thì xưng trẫm, v.v...
Việc nhầm lẫn giữa chủ thể trong ngôn từ với chủ thể phát ngôn này rất phổ biến, ngay cả Descartes với câu: “Tôi tư duy tức tôi tồn tại”. Tất nhiên đây là chân lý trong triết học (duy lý), nhưng là sai lầm về mặt ngữ dụng học. Bởi vì nếu quả thực là mình đang suy nghĩ, thì không thể nào đồng thời có thể lộ diện tả và kể lại những điều mình đang suy nghĩ. Còn nếu đang đứng ra tả và kể lại những điều mình suy nghĩ, thì có nghĩa là mình đang không tư duy gì thêm nữa, chỉ thuật lại những cái vốn đã được tư duy rồi. Cho nên, Lacan đã chữa lại câu của Descartes thành: “Tôi tư duy thì tôi không tồn tại, Tôi tồn tại thì tôi không tư duy”. Sự nhầm lẫn rất tự nhiên và sâu rộng như vậy, chứng tỏ vô thức tồn tại ngay trong ngôn ngữ, một sản phẩm tất yếu và vĩnh hằng của xã hội loài người. Và xưng tôi, nhưng không phải đang là tôi thực sự và trọn vẹn, chứng tỏ cái biểu đạt không phải tương ứng với cái được biểu đạt theo quan niệm của chủ nghĩa cấu trúc, và tư tưởng của J. Lacan đã góp phần mở đầu cho chủ nghĩa giải cấu trúc.
3) Phương pháp lột trần những trá hình chủ quan
J. Lacan không chuyên luận bàn về văn học nghệ thuật, nhưng tư tưởng của ông nhiều khi gây tác dụng khá trực tiếp đến lĩnh vực này. Chẳng hạn sự nhầm lẫn một cách vô thức giữa cái Tôi với tư cách chủ ngữ trong câu nói với cái Tôi với tư cách chủ thể phát ngôn nói trên đã giúp ích rất nhiều trong việc phân biệt giữa tác giả với nội dung tác phẩm ngay ở chủ nghĩa lãng mạn và thơ trữ tình là những phương pháp và thể loại thường xuất hiện đại từ Tôi. Tuy nhiên, J. Lacan thảng hoặc cũng có trực tiếp luận bàn về văn học, mà tiêu biểu nhất là bài phân tích tác phẩm Lá thư bị đánh cắp của Edgar Poe. Khác với S. Freud, J. Lacan không tuyệt đối hoá vô thức, và cho nó luôn luôn song hành với ý thức, cho nên nó gần như là một loại trá hình chủ quan. Cho nên ông đã định nghĩa phê bình tâm phân học là “phương pháp lột trần những trá hình chủ quan” (la méthode de démystification des camouflages subjectifs). J. Lacan thường chú ý hiện tượng vì để lừa người mà phải tự lừa mình, và ông gọi là trò “Autruicherie”, tạm dịch là “trò đà điểu” (Đáng lẽ chỉ viết Autrucherie, nhưng ông cố ý thêm chữ i vào cho có trọn chữ Autrui, có nghĩa là một kẻ khác, nhằm cố ý gây liên tưởng đến mệnh đề sai ngữ pháp Je est un autre nhưng lại diễn đạt đúng hơn quan niệm có vẻ ngược đời của ông: Tôi là kẻ khác).
Để thuyết minh điều này, J. Lacan nêu lại hai cảnh có phần trùng lặp trong Lá thư bị đánh cắp. Cảnh một là trong phòng khuê của hoàng hậu, khi hoàng đế và thượng thư đi vào, thì tay đang cầm lá thư, hoàng hậu đã đặt nó xuống bàn với vẻ tự nhiên. Nhưng thượng thư lại thản nhiên cầm ngay lá thư ấy, và đánh tráo bằng lá thư khác, nhưng hoàng hậu buộc phải thản nhiên, vì rất sợ vua để ý. Cảnh sau là trong phòng thượng thư, thám tử tư bước vào xin gặp, và liếc nhìn quanh lò sưởi, trong sọt giấy lộn, có một phong bì thư lật trái đoán chắc chính là lá thư của hoàng hậu bị đánh cắp. Lúc cáo từ, thám tử giả vờ để quên hộp thuốc lá. Hôm sau, lấy cớ trở lại xin chiếc hộp thuốc, đồng thời cố ý gây một vụ lộn xộn ở trước cổng để đánh lạc hướng chú ý của thượng thư, thám tử đã đánh tráo lấy lại được lá thư của hoàng hậu.
Qua đây, J. Lacan lưu ý đến ba cái nhìn khác nhau. Đó là cái nhìn không thấy gì của hoàng đế. Cái nhìn thứ hai là của hoàng hậu, chỉ nhìn được một người không nhìn thấy gì, cho nên cứ chủ quan để ngỏ cái mình cần giấu. Thứ ba là cái nhìn của người thấy luôn được một người khác giả vờ bỏ ngỏ cái cần giấu, đó là thượng thư. Nhưng đó là trong cảnh đầu, song đến cảnh sau, thì thượng thư lại biến thành loại người thứ hai. Vì trước đó, cảnh sát trưởng có đến lục lọi phòng ông ta, mà không phát hiện được lá thư để ở sọt giấy bên cạnh lò sưởi, cho nên cứ chủ quan để luôn ở đấy. Nhưng chính lúc thượng thư biến thành loại người thứ hai, thì liền có người khác là thám tử đóng vai trò người thứ ba. Thì ra người ta có thể che giấu trong từng nơi từng lúc, chứ trong tương quan và quá trình, tất yếu sẽ bị lộ. Giấu đầu hở đuôi, Autruicherie là như vậy. J. Lacan còn lưu ý trong truyện của E. Poe không nói rõ thư do ai viết, nội dung nói gì, v.v… Nhưng điều đó không quan trọng, bởi vì đích thị do ai viết, nội dung xác định như thế nào, thì cũng trở nên đa nghĩa, bởi vì nó sẽ có những ý nghĩa khác nhau đối với hàng loạt người từ hoàng đế, hoàng hậu, thượng thư, đến thám tử và cảnh sát trưởng. Có thể thấy cách phân tích của J. Lacan không phải là giải mã những ẩn ức vô thức được thăng hoa theo đúng quan niệm của S. Freud, mà có kết hợp với chủ nghĩa cấu trúc, cho vô thức có cấu trúc của ngôn ngữ, nhưng để vươn đến chủ nghĩa giải cấu trúc, vì đã chứng minh một cái biểu đạt không tương ứng với một cái được biểu đạt, mà vô cùng đa nghĩa.
Để thuyết minh điều này, J. Lacan nêu lại hai cảnh có phần trùng lặp trong Lá thư bị đánh cắp. Cảnh một là trong phòng khuê của hoàng hậu, khi hoàng đế và thượng thư đi vào, thì tay đang cầm lá thư, hoàng hậu đã đặt nó xuống bàn với vẻ tự nhiên. Nhưng thượng thư lại thản nhiên cầm ngay lá thư ấy, và đánh tráo bằng lá thư khác, nhưng hoàng hậu buộc phải thản nhiên, vì rất sợ vua để ý. Cảnh sau là trong phòng thượng thư, thám tử tư bước vào xin gặp, và liếc nhìn quanh lò sưởi, trong sọt giấy lộn, có một phong bì thư lật trái đoán chắc chính là lá thư của hoàng hậu bị đánh cắp. Lúc cáo từ, thám tử giả vờ để quên hộp thuốc lá. Hôm sau, lấy cớ trở lại xin chiếc hộp thuốc, đồng thời cố ý gây một vụ lộn xộn ở trước cổng để đánh lạc hướng chú ý của thượng thư, thám tử đã đánh tráo lấy lại được lá thư của hoàng hậu.
Qua đây, J. Lacan lưu ý đến ba cái nhìn khác nhau. Đó là cái nhìn không thấy gì của hoàng đế. Cái nhìn thứ hai là của hoàng hậu, chỉ nhìn được một người không nhìn thấy gì, cho nên cứ chủ quan để ngỏ cái mình cần giấu. Thứ ba là cái nhìn của người thấy luôn được một người khác giả vờ bỏ ngỏ cái cần giấu, đó là thượng thư. Nhưng đó là trong cảnh đầu, song đến cảnh sau, thì thượng thư lại biến thành loại người thứ hai. Vì trước đó, cảnh sát trưởng có đến lục lọi phòng ông ta, mà không phát hiện được lá thư để ở sọt giấy bên cạnh lò sưởi, cho nên cứ chủ quan để luôn ở đấy. Nhưng chính lúc thượng thư biến thành loại người thứ hai, thì liền có người khác là thám tử đóng vai trò người thứ ba. Thì ra người ta có thể che giấu trong từng nơi từng lúc, chứ trong tương quan và quá trình, tất yếu sẽ bị lộ. Giấu đầu hở đuôi, Autruicherie là như vậy. J. Lacan còn lưu ý trong truyện của E. Poe không nói rõ thư do ai viết, nội dung nói gì, v.v… Nhưng điều đó không quan trọng, bởi vì đích thị do ai viết, nội dung xác định như thế nào, thì cũng trở nên đa nghĩa, bởi vì nó sẽ có những ý nghĩa khác nhau đối với hàng loạt người từ hoàng đế, hoàng hậu, thượng thư, đến thám tử và cảnh sát trưởng. Có thể thấy cách phân tích của J. Lacan không phải là giải mã những ẩn ức vô thức được thăng hoa theo đúng quan niệm của S. Freud, mà có kết hợp với chủ nghĩa cấu trúc, cho vô thức có cấu trúc của ngôn ngữ, nhưng để vươn đến chủ nghĩa giải cấu trúc, vì đã chứng minh một cái biểu đạt không tương ứng với một cái được biểu đạt, mà vô cùng đa nghĩa.
"Triệu chứng đầu tiên của tình yêu chân thật ở con trai là sự rụt rè, còn ở người con gái là sự mạnh bạo. Hai phái có khuynh hướng tìm đến với nhau và bên này bù đắp cho tính cách của bên kia."
- Victor Hugo
II) Michel Foucault: Tri thức, quyền lực, trách nhiệm
M. Foucault (1926-1984) có khuynh hướng triết học từ thời trung học, và khi vào Đại học Sư phạm Paris được theo học các triết gia nổi tiếng như G. Dumezil, G. Canguilhem, J. Hyppolite, L. Althusser, v.v… Ngay trong thời Đại học, ông đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, nhưng sinh hoạt lơ là, và đến năm1951 đã ra Đảng. Những năm 50, với tư cách là đại biểu giới văn hoá Pháp, M. Foucault đã chủ trì nhiều hoạt động giao lưu văn hoá ở Paris, đồng thời cũng từng đi giảng dạy ở Đức, Thuỵ Điển, Ba Lan, v.v… Ông cũng từng nhiệt tình ủng hộ phong trào sinh viên bạo loạn năm 1968 ở Paris. Từ năm 1970, ông được phong giáo sư môn lịch sử tư tưởng ở Học viện Pháp quốc và giảng dạy suốt đời tại đây, vì thật ra chưa đến tuổi về hưu đã qua đời, chỉ thọ 58 tuổi. Những công trình chính gồm có Điên cuồng với văn minh (1961), Sự ra đời của phòng khám (1963), Từ với vật (1966), Khảo cổ học tri thức (1969), Trật tự của diễn ngôn (1971), Lịch sử tính dục (1976), Quyền lực với tri thức (1980), v.v…
M. Foucault không hề nhận mình theo chủ nghĩa cấu trúc đã đành, nhưng nếu xếp ông vào chủ nghĩa giải cấu trúc thì hình như có chỗ vướng, vì ông đã không ngừng tranh luận với J. Derrida, tuy là học trò của mình, nhưng là một kiện tướng của chủ nghĩa giải cấu trúc. Song thật ra đó chỉ là câu chuyện “hoà nhi bất đồng”, vả chăng chủ nghĩa giải cấu trúc cũng chỉ là một thành phần, dù là thành phần quan trọng trong chủ nghĩa hậu hiện đại mà thôi. Sự phê phán của ông đối với tính hiện đại, tư tưởng phản trung tâm, phản quyền uy, chống lại mọi quy tắc mặc định, v.v... đã đành là rất đồng điệu với chủ nghĩa giải cấu trúc, nhưng nó phần nào là vũ khí của các thành phần khác trong chủ nghĩa hậu hiện đại như chủ nghĩa lịch sử mới, phê bình hậu thực dân, phê bình nữ quyền, v.v… Bởi vì tư duy của ông được triển khai trong một không gian lịch sử sâu rộng, không những nhằm phê phán những cái vốn có, mà còn được dẫn dắt bởi một mục tiêu xây dựng cho trước mắt và tương lai. Trong tự thuật, ông đã từng viết: “Tôi cho rằng từ thế kỷ XVIII cho đến nay, và tôi tin rằng trong cả tương lai, vấn đề hạt nhân của triết học và tư tưởng phê phán mãi mãi vẫn là: Lý tính mà chúng ta sử dụng xét cho cùng là gì? Hậu quả lịch sử của nó như thế nào? Hạn chế của nó là ở đâu? Nguy cơ của nó ra sao?... Mục tiêu của tôi mãi mãi là muốn sáng lập nên một bộ môn lịch sử về các mô thức tạo lập khác nhau, và dựa vào những mô thức đó, loài người sẽ được xây dựng thành chủ thể trong nền văn hoá của chúng ta”(2). Để giải đáp những câu hỏi, nhất là để thực hiện mục tiêu ấy, tư tưởng học thuật của M. Foucault dần dần hình thành nên những vấn đề trọng điểm như sau:
1) Vấn đề hệ hình tri thức
Hệ hình tri thức là một hệ thống phán đoán giá trị tự hình thành trong một thời kỳ nhất định, hay nói giản dị hơn là “nhận thức chung của cộng đồng” trong một thời đại nhất định. Nó sẽ căn cứ theo hàng loạt tiêu chuẩn của mình để cấu tạo ra tri thức. Theo M. Foucault, lịch sử cận đại châu Âu đã trải qua ba hệ hình tri thức như sau: a) Hệ hình tri thức thời Văn nghệ phục hưng (thế kỷ XIV-XVI): Nguyên tắc cấu tạo tri thức của nó là phạm trù “tương tự”, ở đây từ ngữ và sự vật đan dệt vào nhau, sự vật ẩn giấu trong từ ngữ, con người phải thông qua ngôn ngữ để nhận biết sự vật. b) Hệ hình tri thức thời cổ điển (thế kỷ XVII, XVIII): Nguyên tắc cấu tạo tri thức là yêu cầu đồng nhất giữa từ ngữ với sự vật, cho nên phải thông qua phân tích, phân loại để nhận biết sự vật. c) Hệ hình tri thức từ thế kỷ XIX về sau, yêu cầu nhận thức sự vật phải thông qua cấu trúc nội tại của nó... Khoa học trong thời kỳ này là sinh vật học, chính trị kinh tế học, ngôn ngữ học, v.v… với những khái niệm tương ứng như sinh mệnh, con người, lao động, phát triển, v.v…
Theo M. Foucault, cái mà chúng ta gọi là chân lý, thật ra là phải thông qua sự xác định của những hệ hình tri thức của từng thời đại như vậy. Hệ hình tri thức là cái gì gần như vô thức bao trùm lên từng thời đại, khiến cho cùng một hiện tượng lại được nhận biết rất khác nhau qua từng thời đại. Không phải ngẫu nhiên mà M. Foucault đã khảo sát rất sâu vào lịch sử, nhận thấy hoá ra các giai đoạn khác nhau có những cách nhìn không thống nhất về các hiện tượng như điên cuồng, bệnh hoạn, phạm tội, v.v... Đặc biệt về hiện tượng điên khùng với tư cách là mặt đối lập của lý tính (tỉnh táo) theo nhận thức thông thường ngày nay, M. Foucault lại cho thấy thật ra thời cổ đại lại cho người điên là những đầu óc thâm thúy, đến thời trung cổ lại cho họ cũng là những thành viên bình thường trong xã hội, đến thời cận đại lại xem họ là loại người nguy hiểm gần như tội phạm, và tiếp theo lại xem họ là con bệnh cần được nhập viện để chữa trị. Riêng M. Foucault thì cho rằng, xét trên bình diện tâm lý, nếu điên khùng là cái gì phi lý tính, thì nó không hẳn là đối lập, mà là tấm gương, là sự kéo dài của lý tính. Chỉ cần thấy nhiều nghệ sĩ ưu tú mà thường bị xem là những người không bình thường và trong sáng tác có nhiều yếu tố phi lý tính thì đủ rõ.
Hệ hình tri thức không những có tác dụng trong việc nhận thức chân lý, nhận thức bản chất sự vật, mà thậm chí còn có tác dụng trong việc xác nhận bản thân sự vật đã xuất hiện hay chưa, có tồn tại hay không? Thí dụ đã có tác phẩm thì hiển nhiên là phải có người sáng tác, tức là tác giả, nhưng trong thi học cổ trung đại phương Tây không hề có khái niệm này. Bởi vì trong hệ hình tri thức cổ đại chưa có quan niệm về cá nhân, cá tính, tự ngã. Từ Man trong tiếng Anh có gốc trong tiếng La tinh cổ có nghĩa là Mặt nạ, Vai diễn. Người La mã cổ đại chỉ khi nào bước lên đài tế thần hoặc đóng vai trò pháp nhân trong công việc xã hội nào đó, thì mới được xác định danh phận. Ngoài ra, dù là người sáng tác cũng chan hoà trong chúng sinh mà thôi. Qua nghiên cứu của M. Foucault thì mãi đến thế kỷ XVII, XVIII, khái niệm tác giả mới xuất hiện. Và khi đã xuất hiện thì sự nhìn nhận nó cũng diễn biến. Thế kỷ XIX, nhất là với chủ nghĩa lãng mạn thì tác giả (văn nghệ sĩ) được đề cao như loại người có tài năng thiên phú. Trái lại đến thế kỷ XX, nhất là với chủ nghĩa cấu trúc, thì vai trò nhà văn lại bị đánh mất: “Nhà văn là người duy nhất theo định nghĩa, chịu để mất cái cấu trúc bản thân và của thế giới trong cấu trúc của lời nói” (R. Barthes). Như thế mặc dù từ xưa đến nay, người sáng tác vốn tồn tại như một thực thể, nhưng có được xác nhận hay không, được đánh giá cao hay thấp, thật ra đều do sự chi phối của hệ hình tri thức ở bên sau cả.
2) Quyền lực với tri thức
Trên cơ sở phân tích “hệ hình tri thức”, dần về sau M. Foucault bắt đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa tri thức với quyền lực. Thật ra nếu tri thức phải được tồn tại trong ngôn ngữ diễn đạt, thì chúng ta cũng từng biết Bakhtin đã nhìn thấy quyền lực đã thấm sâu vào ngôn ngữ. Nhưng thật ra về mặt này, M. Foucault đã tiếp thu khá nhiều tư tưởng của F.W. Nietzsche: “Tất cả sự truy cầu chân lý đều do ý chí quyền lực”. Có nghĩa là con người luôn luôn dùng ý chí để quyết định nhu cầu của mình, rồi buộc sự thực phải phù hợp với nhu cầu đó. Cái gọi là chân lý tuyệt đối chẳng qua là được quyết định bởi địa vị quyền uy cùng hình thái ý thức đại diện cho nó. M. Foucault vận dụng tư tưởng này khảo sát vào lịch sử và nhận thấy rằng từ tri thức, lý tính đến chế độ xã hội, v.v..., tất cả những thứ có vẻ tự nhiên nhi nhiên gần như thiên kinh địa nghĩa này chẳng qua là do quyền lực, những sức mạnh thống trị thông qua hình thái ý thức thể hiện trong hệ thống ngôn ngữ mà tạo nên. Trong công trình Giáo huấn và trừng phạt, ông đã khảo sát tỉ mỉ từ nhà tù, trường học, trại lính đến bệnh viện, công xưởng, v.v..., nhận thấy giới quyền thế đã đặt ra chế độ thưởng phạt, hiển nhiên là phạm nhân, học sinh, binh lính, bệnh nhân, thợ thuyền đều nhất nhất tuân theo. Nhưng quan trọng hơn là chính họ đã cảm thấy những điều luật thưởng phạt ấy là hiển nhiên, là thiên kinh địa nghĩa, như vốn trời đất sinh ra đã như thế. Thế rồi, họ gần như tự nguyện biến mình - từ thân xác đến linh hồn, từ tình cảm đến tri thức - trở thành một bộ phận hữu cơ trong guồng máy quyền lực. Trong công trình Lịch sử tính dục cũng vậy, ông đã khảo sát từ thế kỷ XVI đến nay, những cơ chế quyền lực không những ra sức áp chế tính dục, mà còn dày công tạo lập nên những chủ thể tính dục với những nhận thức về tình cảm và kể cả khoái cảm được bao trùm dưới bóng đen của chính những quyền lực ấy.
Nói quyền lực thông qua ngôn ngữ để tạo ra tri thức, lập luận của M. Foucault có cái gì tương tự như những quan niệm “hợp pháp hoá”, “hợp lý hoá” của triết gia J. Habermas của trường phái Frankfurt. Ý chí quyền lực bao giờ cũng muốn được “hợp pháp hoá” để dễ bề trị thiên hạ, nhưng cũng rất chú ý kết hợp với vai trò quan trọng của “hợp lý hoá”. Theo M. Foucault, giai cấp tư sản ngày nay rất chú ý vừa cải tiến vừa tuyên truyền rất có hiệu quả cho chế độ tư bản dù có bóc lột thì giai cấp công nhân vẫn thấy là hợp lý. Lập luận của M. Foucault phảng phất tính chất mác-xít, nhưng không nên lẫn lộn. Bởi vì ông không bao giờ đặt ra vấn đề truy nguyên cơ sở của quyền lực là từ đâu, vì quan niệm rằng lịch sử bao gồm vô cùng nhiều những nhân tố phức tạp, tương tác trong các dạng tụ họp, ly tán, trùng lặp và rất khó duy nhất quy về nhân tố kinh tế, dù là chỉ xét đến cùng! Không chỉ có tài phiệt, mà còn có quân phiệt và học phiệt, v.v…
3) Trách nhiệm với tri thức và quyền lực
Cùng với tri thức và quyền lực, trách nhiệm cũng là một trọng điểm nghiền ngẫm và suy tư của M. Foucault. Mặc dù trong từng lúc có thể đột xuất lên một khía cạnh nào đó, nhưng xét trong cả quá trình nghiên cứu bất kỳ vấn đề gì thì tư duy của M. Foucault đều được song hành bởi ba phương diện đó. Đối với bất cứ đối tượng nghiên cứu nào, ông cũng nêu ra ba câu hỏi: Tôi biết (savoir) được cái này là thế nào? Tôi có thể (pouvoir) làm được gì? Tôi phải (devoir) làm ra sao? Tư tưởng của M. Foucault không chiết trung, không phải thế này cũng không phải thế kia (ni l’un, ni l’autre), nhị nguyên mà là “tam nguyên” rạch ròi, nói bỏ đi để mà tìm lại (se perdre pour se retrouver) theo các bước: Tôi—Không phải Tôi—Không phải không phải Tôi. Nếu bàn về mặt tri thức thì đó là sự cấu tạo của diễn ngôn (formation discursive), nếu bàn về mặt quyền lực, thì đó là sự cấu tạo phi diễn ngôn (formation non—discursive), nếu bàn về mặt trách nhiệm thì đó là sự cấu tạo không phải phi diễn ngôn (formation non-non-discursive). Nếu tri thức là hư cấu của từ ngữ, quyền lực là hư cấu của sự vật, thì trách nhiệm là hư cấu của chủ thể: “Hư cấu không phải ở chỗ làm cho có thể thấy những cái không thấy được (faire voir l’invisible), mà là ở chỗ làm cho có thể thấy được cái không thể thấy của cái thấy được trở thành không thể thấy được như thế nào (faire voir combien est invisible l’invisibilité du visible)”(3). Trách nhiệm cũng như tri thức và quyền lực đều là sự cấu thành đặc thù trong một không thời gian nhất định, chứ không phải là những nguyên lý phổ biến. Tri thức là cái thấy và nói được trong một cấu tạo lịch sử nhất định, mà ngôn ngữ và ánh sáng là những tiền đề cơ bản không thể tách rời. Quyền lực là mô thức đặc thù trong tương quan lực lượng trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Trách nhiệm là trình tự và kỹ thuật được chủ thể hoá trong mỗi giai đoạn lịch sử. Như thế, tri thức, quyền lực hay trách nhiệm đều có điều kiện. Nhưng bất cứ điều kiện nào cũng là điều kiện trong những điều kiện nhất định, nó mang tính lịch sử đặc thù, nhưng không tất yếu, không thể tranh cãi (apodictique), mà còn có vấn đề (problématique) chưa dứt. Tôi có thể biết được gì, có nghĩa là trong những điều kiện nhất định về ngôn ngữ và ánh sáng tôi có thể thấy và nói được gì? Tôi có thể làm được gì, có nghĩa là trong một tương quan lực lượng nhất định, tôi có thể ở vị trí nào và đối trọng với ai? Tôi phải làm ra sao, có nghĩa là trong một hệ thống tri thức và quyền lực nhất định đối diện với truyền thống, phong tục tập quán trong lịch sử, tôi phải tự bồi dưỡng mình như thế nào? Cái “Tôi” trong ba mặt ấy, không phải là cái “Tự ngã” phổ biến mà chỉ là một chỉnh thể trong khả năng có thể giành được một vị trí đặc thù được sinh ra từ cả ba mặt đó. Bất kỳ một giải pháp nào trong lịch sử cũng không thể chuyển dịch sang hoàn cảnh lịch sử khác, nhưng có thể có một số vấn đề thẩm thấu (empiéter) hoặc xuyên thấm (pénetrer) đến tất cả các giai đoạn lịch sử.
Tri thức, quyền lực và trách nhiệm tương tác qua lại, và không thể thiếu bất cứ khâu nào. Tri thức mặc dù không thể tác động trực tiếp và có hiệu quả với công cuộc cải tạo thế giới, nhưng thiếu nó, thì không thể nào thực hiện quyền lực và đảm nhận trách nhiệm. Còn nếu không có quyền lực, thì tri thức và trách nhiệm chỉ là nói suông hoặc ảo tưởng. Nếu không có trách nhiệm, thì những chủ thể tri thức hoặc kẻ cầm quyền có thể biến thành nô lệ hoặc vật hy sinh cho tri thức và quyền lực, và từ đó tri thức chẳng qua là vô tri vô thức, quyền lực cũng thành vô quyền và bất lực. Cho nên đối với kẻ sĩ xưa nay, trách nhiệm chính là tri thức của tri thức (le savoir du savoir), quyền lực của quyền lực (le pouvoir du pouvoir), hơn nữa còn chính là trách nhiệm của trách nhiệm (le devoir du devoir) thông thường. Kẻ sĩ xưa nay đều mang nặng trong lòng hình ảnh bậc trí giả Hy Lạp, đấng tiên tri Do Thái, nhà lập pháp La Mã, luôn phán đoán tương lai, định chế cho hiện tại, giảng giải cho thiên hạ thế nào là tốt, việc gì nên làm, hướng nào nên đi. Nhưng theo M. Foucault, đó toàn là ảo tưởng mà trí thức ngày nay cần tránh xa. Cần thiết và đúng đắn nhất là phải luôn luôn tự hỏi: Tôi biết cái gì, có thể làm được gì và làm như thế nào? Ông cho rằng: “Công việc của người trí thức không phải đi nhào nặn nguyện vọng chính trị cho kẻ khác, mà là thông qua việc phân tích chuyên môn của mình, để khảo sát lại tính minh bạch và công lý, làm rung chuyển những quán tính, những hành vi và phương thức tư tưởng, xua tan những thứ thông tục dễ chấp nhận, đồng thời trên cơ sở sự tham dự việc cấu tạo những nguyện vọng chính trị ấy, sẽ nhận được cái mức độ của những quy tắc và thể chế (reprendre la mesure des règles et des institutions)”(4).
Nói J. Lacan và M. Foucault là những nhà lý luận tiên phong của chủ nghĩa hậu hiện đại, như thế cũng hàm ý rằng họ không phải là những người trực diện khái quát và luận bàn từ thực tiễn sáng tác hậu hiện đại, mà chủ yếu là tư duy và quan niệm của họ đã trở thành vũ khí lý thuyết cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Như quan niệm của M. Foucault đã góp phần đặt cơ sở lý thuyết cho các chi lưu của chủ nghĩa hậu hiện đại về sau. Như Chủ nghĩa lịch sử mới thì cho rằng trong mối quan hệ giữa văn học với lịch sử có bao hàm mối quan hệ giữa nhân vật văn học với hệ thống quyền lực trong hiện thực lịch sử (S. Greenblatt). Phê bình nữ quyền thì cho rằng quyền lực khống chế ngôn ngữ của nam giới đã dụ dỗ nữ giới phải mắc vào tròng “chân lý” của họ (S.de.Beauvoir). Phê bình hậu thực dân thì cho rằng phương Đông (bao gồm phần lớn thế giới thứ ba) luôn bị kiến tạo hoặc giải thích lại theo cách nhìn phương Tây, nào là phương Đông của chủ nghĩa Darwin, thậm chí là phương Đông của chủ nghĩa Freud, v.v... (E. Said). Quả đúng như M. Foucault nói quyền lực thao túng khắp nơi không những trong chính trị xã hội, mà cả trong lịch sử và giới tính nữa1
__________________
(1) Ecrits, Seuil, Paris 1966, p.149.
(2) Hậu hiện đại lý luận,Trung ương biên dịch xuất bản xã, Bắc Kinh 1999, tr.47.
(3) Naissance de la clinique, Presses Universitaires de France 1963, p.116.
(4) Dits et écrits, Gallimard 1994, p.676.
Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 5/2008
Nguồn: http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=474&menu=118
M. Foucault (1926-1984) có khuynh hướng triết học từ thời trung học, và khi vào Đại học Sư phạm Paris được theo học các triết gia nổi tiếng như G. Dumezil, G. Canguilhem, J. Hyppolite, L. Althusser, v.v… Ngay trong thời Đại học, ông đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, nhưng sinh hoạt lơ là, và đến năm1951 đã ra Đảng. Những năm 50, với tư cách là đại biểu giới văn hoá Pháp, M. Foucault đã chủ trì nhiều hoạt động giao lưu văn hoá ở Paris, đồng thời cũng từng đi giảng dạy ở Đức, Thuỵ Điển, Ba Lan, v.v… Ông cũng từng nhiệt tình ủng hộ phong trào sinh viên bạo loạn năm 1968 ở Paris. Từ năm 1970, ông được phong giáo sư môn lịch sử tư tưởng ở Học viện Pháp quốc và giảng dạy suốt đời tại đây, vì thật ra chưa đến tuổi về hưu đã qua đời, chỉ thọ 58 tuổi. Những công trình chính gồm có Điên cuồng với văn minh (1961), Sự ra đời của phòng khám (1963), Từ với vật (1966), Khảo cổ học tri thức (1969), Trật tự của diễn ngôn (1971), Lịch sử tính dục (1976), Quyền lực với tri thức (1980), v.v…
M. Foucault không hề nhận mình theo chủ nghĩa cấu trúc đã đành, nhưng nếu xếp ông vào chủ nghĩa giải cấu trúc thì hình như có chỗ vướng, vì ông đã không ngừng tranh luận với J. Derrida, tuy là học trò của mình, nhưng là một kiện tướng của chủ nghĩa giải cấu trúc. Song thật ra đó chỉ là câu chuyện “hoà nhi bất đồng”, vả chăng chủ nghĩa giải cấu trúc cũng chỉ là một thành phần, dù là thành phần quan trọng trong chủ nghĩa hậu hiện đại mà thôi. Sự phê phán của ông đối với tính hiện đại, tư tưởng phản trung tâm, phản quyền uy, chống lại mọi quy tắc mặc định, v.v... đã đành là rất đồng điệu với chủ nghĩa giải cấu trúc, nhưng nó phần nào là vũ khí của các thành phần khác trong chủ nghĩa hậu hiện đại như chủ nghĩa lịch sử mới, phê bình hậu thực dân, phê bình nữ quyền, v.v… Bởi vì tư duy của ông được triển khai trong một không gian lịch sử sâu rộng, không những nhằm phê phán những cái vốn có, mà còn được dẫn dắt bởi một mục tiêu xây dựng cho trước mắt và tương lai. Trong tự thuật, ông đã từng viết: “Tôi cho rằng từ thế kỷ XVIII cho đến nay, và tôi tin rằng trong cả tương lai, vấn đề hạt nhân của triết học và tư tưởng phê phán mãi mãi vẫn là: Lý tính mà chúng ta sử dụng xét cho cùng là gì? Hậu quả lịch sử của nó như thế nào? Hạn chế của nó là ở đâu? Nguy cơ của nó ra sao?... Mục tiêu của tôi mãi mãi là muốn sáng lập nên một bộ môn lịch sử về các mô thức tạo lập khác nhau, và dựa vào những mô thức đó, loài người sẽ được xây dựng thành chủ thể trong nền văn hoá của chúng ta”(2). Để giải đáp những câu hỏi, nhất là để thực hiện mục tiêu ấy, tư tưởng học thuật của M. Foucault dần dần hình thành nên những vấn đề trọng điểm như sau:
1) Vấn đề hệ hình tri thức
Hệ hình tri thức là một hệ thống phán đoán giá trị tự hình thành trong một thời kỳ nhất định, hay nói giản dị hơn là “nhận thức chung của cộng đồng” trong một thời đại nhất định. Nó sẽ căn cứ theo hàng loạt tiêu chuẩn của mình để cấu tạo ra tri thức. Theo M. Foucault, lịch sử cận đại châu Âu đã trải qua ba hệ hình tri thức như sau: a) Hệ hình tri thức thời Văn nghệ phục hưng (thế kỷ XIV-XVI): Nguyên tắc cấu tạo tri thức của nó là phạm trù “tương tự”, ở đây từ ngữ và sự vật đan dệt vào nhau, sự vật ẩn giấu trong từ ngữ, con người phải thông qua ngôn ngữ để nhận biết sự vật. b) Hệ hình tri thức thời cổ điển (thế kỷ XVII, XVIII): Nguyên tắc cấu tạo tri thức là yêu cầu đồng nhất giữa từ ngữ với sự vật, cho nên phải thông qua phân tích, phân loại để nhận biết sự vật. c) Hệ hình tri thức từ thế kỷ XIX về sau, yêu cầu nhận thức sự vật phải thông qua cấu trúc nội tại của nó... Khoa học trong thời kỳ này là sinh vật học, chính trị kinh tế học, ngôn ngữ học, v.v… với những khái niệm tương ứng như sinh mệnh, con người, lao động, phát triển, v.v…
Theo M. Foucault, cái mà chúng ta gọi là chân lý, thật ra là phải thông qua sự xác định của những hệ hình tri thức của từng thời đại như vậy. Hệ hình tri thức là cái gì gần như vô thức bao trùm lên từng thời đại, khiến cho cùng một hiện tượng lại được nhận biết rất khác nhau qua từng thời đại. Không phải ngẫu nhiên mà M. Foucault đã khảo sát rất sâu vào lịch sử, nhận thấy hoá ra các giai đoạn khác nhau có những cách nhìn không thống nhất về các hiện tượng như điên cuồng, bệnh hoạn, phạm tội, v.v... Đặc biệt về hiện tượng điên khùng với tư cách là mặt đối lập của lý tính (tỉnh táo) theo nhận thức thông thường ngày nay, M. Foucault lại cho thấy thật ra thời cổ đại lại cho người điên là những đầu óc thâm thúy, đến thời trung cổ lại cho họ cũng là những thành viên bình thường trong xã hội, đến thời cận đại lại xem họ là loại người nguy hiểm gần như tội phạm, và tiếp theo lại xem họ là con bệnh cần được nhập viện để chữa trị. Riêng M. Foucault thì cho rằng, xét trên bình diện tâm lý, nếu điên khùng là cái gì phi lý tính, thì nó không hẳn là đối lập, mà là tấm gương, là sự kéo dài của lý tính. Chỉ cần thấy nhiều nghệ sĩ ưu tú mà thường bị xem là những người không bình thường và trong sáng tác có nhiều yếu tố phi lý tính thì đủ rõ.
Hệ hình tri thức không những có tác dụng trong việc nhận thức chân lý, nhận thức bản chất sự vật, mà thậm chí còn có tác dụng trong việc xác nhận bản thân sự vật đã xuất hiện hay chưa, có tồn tại hay không? Thí dụ đã có tác phẩm thì hiển nhiên là phải có người sáng tác, tức là tác giả, nhưng trong thi học cổ trung đại phương Tây không hề có khái niệm này. Bởi vì trong hệ hình tri thức cổ đại chưa có quan niệm về cá nhân, cá tính, tự ngã. Từ Man trong tiếng Anh có gốc trong tiếng La tinh cổ có nghĩa là Mặt nạ, Vai diễn. Người La mã cổ đại chỉ khi nào bước lên đài tế thần hoặc đóng vai trò pháp nhân trong công việc xã hội nào đó, thì mới được xác định danh phận. Ngoài ra, dù là người sáng tác cũng chan hoà trong chúng sinh mà thôi. Qua nghiên cứu của M. Foucault thì mãi đến thế kỷ XVII, XVIII, khái niệm tác giả mới xuất hiện. Và khi đã xuất hiện thì sự nhìn nhận nó cũng diễn biến. Thế kỷ XIX, nhất là với chủ nghĩa lãng mạn thì tác giả (văn nghệ sĩ) được đề cao như loại người có tài năng thiên phú. Trái lại đến thế kỷ XX, nhất là với chủ nghĩa cấu trúc, thì vai trò nhà văn lại bị đánh mất: “Nhà văn là người duy nhất theo định nghĩa, chịu để mất cái cấu trúc bản thân và của thế giới trong cấu trúc của lời nói” (R. Barthes). Như thế mặc dù từ xưa đến nay, người sáng tác vốn tồn tại như một thực thể, nhưng có được xác nhận hay không, được đánh giá cao hay thấp, thật ra đều do sự chi phối của hệ hình tri thức ở bên sau cả.
2) Quyền lực với tri thức
Trên cơ sở phân tích “hệ hình tri thức”, dần về sau M. Foucault bắt đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa tri thức với quyền lực. Thật ra nếu tri thức phải được tồn tại trong ngôn ngữ diễn đạt, thì chúng ta cũng từng biết Bakhtin đã nhìn thấy quyền lực đã thấm sâu vào ngôn ngữ. Nhưng thật ra về mặt này, M. Foucault đã tiếp thu khá nhiều tư tưởng của F.W. Nietzsche: “Tất cả sự truy cầu chân lý đều do ý chí quyền lực”. Có nghĩa là con người luôn luôn dùng ý chí để quyết định nhu cầu của mình, rồi buộc sự thực phải phù hợp với nhu cầu đó. Cái gọi là chân lý tuyệt đối chẳng qua là được quyết định bởi địa vị quyền uy cùng hình thái ý thức đại diện cho nó. M. Foucault vận dụng tư tưởng này khảo sát vào lịch sử và nhận thấy rằng từ tri thức, lý tính đến chế độ xã hội, v.v..., tất cả những thứ có vẻ tự nhiên nhi nhiên gần như thiên kinh địa nghĩa này chẳng qua là do quyền lực, những sức mạnh thống trị thông qua hình thái ý thức thể hiện trong hệ thống ngôn ngữ mà tạo nên. Trong công trình Giáo huấn và trừng phạt, ông đã khảo sát tỉ mỉ từ nhà tù, trường học, trại lính đến bệnh viện, công xưởng, v.v..., nhận thấy giới quyền thế đã đặt ra chế độ thưởng phạt, hiển nhiên là phạm nhân, học sinh, binh lính, bệnh nhân, thợ thuyền đều nhất nhất tuân theo. Nhưng quan trọng hơn là chính họ đã cảm thấy những điều luật thưởng phạt ấy là hiển nhiên, là thiên kinh địa nghĩa, như vốn trời đất sinh ra đã như thế. Thế rồi, họ gần như tự nguyện biến mình - từ thân xác đến linh hồn, từ tình cảm đến tri thức - trở thành một bộ phận hữu cơ trong guồng máy quyền lực. Trong công trình Lịch sử tính dục cũng vậy, ông đã khảo sát từ thế kỷ XVI đến nay, những cơ chế quyền lực không những ra sức áp chế tính dục, mà còn dày công tạo lập nên những chủ thể tính dục với những nhận thức về tình cảm và kể cả khoái cảm được bao trùm dưới bóng đen của chính những quyền lực ấy.
Nói quyền lực thông qua ngôn ngữ để tạo ra tri thức, lập luận của M. Foucault có cái gì tương tự như những quan niệm “hợp pháp hoá”, “hợp lý hoá” của triết gia J. Habermas của trường phái Frankfurt. Ý chí quyền lực bao giờ cũng muốn được “hợp pháp hoá” để dễ bề trị thiên hạ, nhưng cũng rất chú ý kết hợp với vai trò quan trọng của “hợp lý hoá”. Theo M. Foucault, giai cấp tư sản ngày nay rất chú ý vừa cải tiến vừa tuyên truyền rất có hiệu quả cho chế độ tư bản dù có bóc lột thì giai cấp công nhân vẫn thấy là hợp lý. Lập luận của M. Foucault phảng phất tính chất mác-xít, nhưng không nên lẫn lộn. Bởi vì ông không bao giờ đặt ra vấn đề truy nguyên cơ sở của quyền lực là từ đâu, vì quan niệm rằng lịch sử bao gồm vô cùng nhiều những nhân tố phức tạp, tương tác trong các dạng tụ họp, ly tán, trùng lặp và rất khó duy nhất quy về nhân tố kinh tế, dù là chỉ xét đến cùng! Không chỉ có tài phiệt, mà còn có quân phiệt và học phiệt, v.v…
3) Trách nhiệm với tri thức và quyền lực
Cùng với tri thức và quyền lực, trách nhiệm cũng là một trọng điểm nghiền ngẫm và suy tư của M. Foucault. Mặc dù trong từng lúc có thể đột xuất lên một khía cạnh nào đó, nhưng xét trong cả quá trình nghiên cứu bất kỳ vấn đề gì thì tư duy của M. Foucault đều được song hành bởi ba phương diện đó. Đối với bất cứ đối tượng nghiên cứu nào, ông cũng nêu ra ba câu hỏi: Tôi biết (savoir) được cái này là thế nào? Tôi có thể (pouvoir) làm được gì? Tôi phải (devoir) làm ra sao? Tư tưởng của M. Foucault không chiết trung, không phải thế này cũng không phải thế kia (ni l’un, ni l’autre), nhị nguyên mà là “tam nguyên” rạch ròi, nói bỏ đi để mà tìm lại (se perdre pour se retrouver) theo các bước: Tôi—Không phải Tôi—Không phải không phải Tôi. Nếu bàn về mặt tri thức thì đó là sự cấu tạo của diễn ngôn (formation discursive), nếu bàn về mặt quyền lực, thì đó là sự cấu tạo phi diễn ngôn (formation non—discursive), nếu bàn về mặt trách nhiệm thì đó là sự cấu tạo không phải phi diễn ngôn (formation non-non-discursive). Nếu tri thức là hư cấu của từ ngữ, quyền lực là hư cấu của sự vật, thì trách nhiệm là hư cấu của chủ thể: “Hư cấu không phải ở chỗ làm cho có thể thấy những cái không thấy được (faire voir l’invisible), mà là ở chỗ làm cho có thể thấy được cái không thể thấy của cái thấy được trở thành không thể thấy được như thế nào (faire voir combien est invisible l’invisibilité du visible)”(3). Trách nhiệm cũng như tri thức và quyền lực đều là sự cấu thành đặc thù trong một không thời gian nhất định, chứ không phải là những nguyên lý phổ biến. Tri thức là cái thấy và nói được trong một cấu tạo lịch sử nhất định, mà ngôn ngữ và ánh sáng là những tiền đề cơ bản không thể tách rời. Quyền lực là mô thức đặc thù trong tương quan lực lượng trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Trách nhiệm là trình tự và kỹ thuật được chủ thể hoá trong mỗi giai đoạn lịch sử. Như thế, tri thức, quyền lực hay trách nhiệm đều có điều kiện. Nhưng bất cứ điều kiện nào cũng là điều kiện trong những điều kiện nhất định, nó mang tính lịch sử đặc thù, nhưng không tất yếu, không thể tranh cãi (apodictique), mà còn có vấn đề (problématique) chưa dứt. Tôi có thể biết được gì, có nghĩa là trong những điều kiện nhất định về ngôn ngữ và ánh sáng tôi có thể thấy và nói được gì? Tôi có thể làm được gì, có nghĩa là trong một tương quan lực lượng nhất định, tôi có thể ở vị trí nào và đối trọng với ai? Tôi phải làm ra sao, có nghĩa là trong một hệ thống tri thức và quyền lực nhất định đối diện với truyền thống, phong tục tập quán trong lịch sử, tôi phải tự bồi dưỡng mình như thế nào? Cái “Tôi” trong ba mặt ấy, không phải là cái “Tự ngã” phổ biến mà chỉ là một chỉnh thể trong khả năng có thể giành được một vị trí đặc thù được sinh ra từ cả ba mặt đó. Bất kỳ một giải pháp nào trong lịch sử cũng không thể chuyển dịch sang hoàn cảnh lịch sử khác, nhưng có thể có một số vấn đề thẩm thấu (empiéter) hoặc xuyên thấm (pénetrer) đến tất cả các giai đoạn lịch sử.
Tri thức, quyền lực và trách nhiệm tương tác qua lại, và không thể thiếu bất cứ khâu nào. Tri thức mặc dù không thể tác động trực tiếp và có hiệu quả với công cuộc cải tạo thế giới, nhưng thiếu nó, thì không thể nào thực hiện quyền lực và đảm nhận trách nhiệm. Còn nếu không có quyền lực, thì tri thức và trách nhiệm chỉ là nói suông hoặc ảo tưởng. Nếu không có trách nhiệm, thì những chủ thể tri thức hoặc kẻ cầm quyền có thể biến thành nô lệ hoặc vật hy sinh cho tri thức và quyền lực, và từ đó tri thức chẳng qua là vô tri vô thức, quyền lực cũng thành vô quyền và bất lực. Cho nên đối với kẻ sĩ xưa nay, trách nhiệm chính là tri thức của tri thức (le savoir du savoir), quyền lực của quyền lực (le pouvoir du pouvoir), hơn nữa còn chính là trách nhiệm của trách nhiệm (le devoir du devoir) thông thường. Kẻ sĩ xưa nay đều mang nặng trong lòng hình ảnh bậc trí giả Hy Lạp, đấng tiên tri Do Thái, nhà lập pháp La Mã, luôn phán đoán tương lai, định chế cho hiện tại, giảng giải cho thiên hạ thế nào là tốt, việc gì nên làm, hướng nào nên đi. Nhưng theo M. Foucault, đó toàn là ảo tưởng mà trí thức ngày nay cần tránh xa. Cần thiết và đúng đắn nhất là phải luôn luôn tự hỏi: Tôi biết cái gì, có thể làm được gì và làm như thế nào? Ông cho rằng: “Công việc của người trí thức không phải đi nhào nặn nguyện vọng chính trị cho kẻ khác, mà là thông qua việc phân tích chuyên môn của mình, để khảo sát lại tính minh bạch và công lý, làm rung chuyển những quán tính, những hành vi và phương thức tư tưởng, xua tan những thứ thông tục dễ chấp nhận, đồng thời trên cơ sở sự tham dự việc cấu tạo những nguyện vọng chính trị ấy, sẽ nhận được cái mức độ của những quy tắc và thể chế (reprendre la mesure des règles et des institutions)”(4).
Nói J. Lacan và M. Foucault là những nhà lý luận tiên phong của chủ nghĩa hậu hiện đại, như thế cũng hàm ý rằng họ không phải là những người trực diện khái quát và luận bàn từ thực tiễn sáng tác hậu hiện đại, mà chủ yếu là tư duy và quan niệm của họ đã trở thành vũ khí lý thuyết cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Như quan niệm của M. Foucault đã góp phần đặt cơ sở lý thuyết cho các chi lưu của chủ nghĩa hậu hiện đại về sau. Như Chủ nghĩa lịch sử mới thì cho rằng trong mối quan hệ giữa văn học với lịch sử có bao hàm mối quan hệ giữa nhân vật văn học với hệ thống quyền lực trong hiện thực lịch sử (S. Greenblatt). Phê bình nữ quyền thì cho rằng quyền lực khống chế ngôn ngữ của nam giới đã dụ dỗ nữ giới phải mắc vào tròng “chân lý” của họ (S.de.Beauvoir). Phê bình hậu thực dân thì cho rằng phương Đông (bao gồm phần lớn thế giới thứ ba) luôn bị kiến tạo hoặc giải thích lại theo cách nhìn phương Tây, nào là phương Đông của chủ nghĩa Darwin, thậm chí là phương Đông của chủ nghĩa Freud, v.v... (E. Said). Quả đúng như M. Foucault nói quyền lực thao túng khắp nơi không những trong chính trị xã hội, mà cả trong lịch sử và giới tính nữa1
__________________
(1) Ecrits, Seuil, Paris 1966, p.149.
(2) Hậu hiện đại lý luận,Trung ương biên dịch xuất bản xã, Bắc Kinh 1999, tr.47.
(3) Naissance de la clinique, Presses Universitaires de France 1963, p.116.
(4) Dits et écrits, Gallimard 1994, p.676.
Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 5/2008
Nguồn: http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=474&menu=118
Đánh giá bài viết?