Những khía cạnh triết học của cơ chế hình phạt trong khoa học pháp luật theo quan niệm của Michel Foucault - Bùi Quang Hưng, Mai K Đa

 


Thông tin trích dẫn:
Bùi Quang Hưng, Mai K Đa (2023), Những khía cạnh triết học của cơ chế hình phạt trong khoa học pháp luật theo quan niệm của Michel Foucault, Tạp chí Thanh niên nghiên cứu khoa học, số 42, tr. 92-94, ISSN 2734-9039.

Tóm tắt: Michel Foucault- triết gia nổi tiếng người Pháp thế kỷ XX, đã để lại những ý tưởng triết học quan trọng về hệ thống tư pháp hình sự, sự thay đổi đối tượng trừng phạt cũng như quan niệm về hình phạt tử hình. Khi viết tác phẩm xuất sắc của mình “Giám sát và trừng phạt: Nguồn gốc nhà tù”, Foucault đã bác bỏ những thành tựu, tư tưởng tiến bộ xuất hiện từ thời Khai sáng, ông cho rằng, sự xuất hiện của các nhà tù hiện đại và hệ thống cải tạo dường như chỉ là những phương tiện ngấm ngầm nhằm mục đích kiểm soát xã hội. Xuất phát từ khái niệm ‘patria potestas’, thứ quyền lực được trao cho người cha trong một gia đình La Mã quyền định đoạt mạng sống của con trai mình giống như cách ông có thể làm đối với nô lệ, Foucault đã tuyên bố rằng hình phạt tử hình thực ra chỉ là một cách thức quyền lực chủ quyền áp đặt ý chí lên người dân. Quan niệm trên của Foucault đã có tác động to lớn đến quá trình nghiên cứu, phát triển hệ thống tư pháp hình sự ở các nước phát triển, đặc biệt là ở Anh, Hoa Kỳ. Bài viết này bước đầu xem xét một số nội dung trong tư tưởng của Michel Foucault về hình phạt tử hình thông qua phân tích các tác phẩm nổi bật của triết gia này.

Từ khoá: hình phạt, tử hình, tư pháp, hình sự, quyền lực Ngày nhận: 5/11/2023;

Ngày sửa: 10/11/2023; Duyệt đăng: 15/11/2023

Mở đầu

Những khía cạnh triết học của hình phạt là một lĩnh vực nghiên cứu sâu về bản chất và ý nghĩa của quyền lực xã hội khi được thể hiện thông qua cơ chế pháp lý. Khoa học pháp lý không chỉ đóng vai trò là nền tảng của hệ thống luật pháp, mà còn đóng góp quan trọng trong việc hiểu về sự phân chia quyền lực, công lý và trách nhiệm trong xã hội. Hình phạt, như một phần quan trọng của khoa học pháp lý, không chỉ giới hạn ở việc xử lý tội phạm mà còn mang theo một tầm nhìn sâu sắc về quyền lực và ảnh hưởng của nó đối với cá nhân và xã hội. Hơn nữa, nó đòi hỏi ta suy nghĩ về mục tiêu của hình phạt, liệu mục đích đó là trừng phạt, sửa chữa, hay tạo điều kiện cho sự phục hồi, cải tạo. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả tập trung vào những khía cạnh triết học của hình phạt trong lĩnh vực khoa học pháp lý, chủ yếu thông qua khảo cứu quan niệm của triết gia người Pháp Michel Foucault. Bằng cách phân tích các quan điểm triết học, lý thuyết, nền tảng đạo đức và ảnh hưởng của hình phạt trong việc thi hành pháp luật, chúng tôi mong muốn khai mở kiến thức và thảo luận sâu hơn về vai trò quan trọng và tác động của triết học trong khoa học pháp lý, góp phần vào việc nâng cao hiểu biết và cải thiện chất lượng công tác pháp lý tại Việt Nam hiện nay.

1. Về cuộc đời và sự nghiệp của Michel Foucault

Michel Foucault được xem là một nhà hậu cấu trúc. Ông lên tiếng chỉ trích những cơ cấu và thể chế đã được thiết lập từ trước đó của nhà nước hoặc quyền lực chủ quyền. Khi đưa ra lý thuyết của mình về quyền lực, tri thức và hình phạt, Foucault cho rằng, quyền lực không thể hiểu theo quan điểm và cấu trúc tĩnh, mà cần phải xem xét cách nó được thực thi - đó có tính năng tạo ra các cấu trúc và tri thức xã hội, đồng thời mang tính đa dạng và phi tập trung.

Trong lý thuyết của mình về quyền lực, Foucault đã bàn về quyền lực của chủ quyền và các hình thức thực thi quyền lực (bởi chủ quyền) đã chuyển từ hình thức trừng phạt này sang hình thức trừng phạt khác như thế nào. Khi viết cuốn sách “Giám sát và trừng phạt: Nguồn gốc nhà tù”, Foucault đã nói về cách hệ thống hình phạt đã thay đổi từ phiên bản công khai, tàn bạo sang phiên bản kín đáo hơn. Ông giải thích tại sao vào thế kỷ 17, người ta bị chém công khai và giờ đây, những cảnh tượng hành quyết công khai như vậy không còn xuất hiện nữa. Từ đó, Foucault luận giải và đưa ra bản chất của sự thay đổi cơ chế hình phạt tại châu Âu và Hoa Kỳ.

2. Những khía cạnh triết học của cơ chế hình phạt trong khoa học pháp lý

2.1. Sự thay đổi cơ chế hình phạt

Lý thuyết quyền lực của Michel Foucault định hình quan niệm của ông về hình phạt. Foucault xem các hình thức quyền lực thống trị được sử dụng bởi nhà nước hiện đại là một mạng lưới quan hệ quyền lực phức tạp. Do đó, hình phạt là một biểu hiện của “các lực lượng chung trong xã hội phản ánh các hình thức thống trị của quyền lực xã hội và chính trị;” nó là một công cụ quyền lực được sử dụng để tạo ra các cá nhân tuân theo các yêu cầu của nhà nước1 . Không giống như Kant, Hegel và Van Den Haag, những người bàn về hình phạt tử hình bằng các thuật ngữ trừu tượng, lý thuyết, Foucault không nêu rõ một lý thuyết bất biến duy nhất về hình phạt. Thay vào đó, ông xem xét sự “thực hành” để trả lời câu hỏi “người ta trừng phạt như thế nào?”2 .Để làm điều này, Foucault sử dụng một cách tiếp cận lịch sử để xem xét cách các chính phủ thực thi quyền lực thông qua hình phạt. Theo Foucault, người ta phải chứng minh các vấn đề trong hình phạt hiển nhiên được coi là sai lầm bằng cách khám phá mối liên hệ của nó với sự đa dạng của các quá trình lịch sử3 ”. Đối với Foucault, hình phạt phục vụ nhiều mục đích và nguyên tắc đạo đức khác nhau thay đổi qua các giai đoạn lịch sử và giữa các xã hội, đây một sự tiếp nối rõ ràng lý thuyết của Nietzsche về sự thay đổi mục đích của hình phạt. Những thay đổi lịch sử này phải được xem xét để hiểu mục đích và phương pháp trừng phạt hiện đại.

Foucault đã sử dụng phương pháp lịch sử, dựa trên ngữ cảnh này để phân tích hình phạt trong Giám sát và trừng phạt: Nguồn gốc của nhà tù. Trong chương II, “Sự trừng phạt phổ biến”, Foucault thảo luận về những cải cách hình phạt thế kỷ thứ mười tám. Trong khoảng thời gian này, các nhà cải cách xác định rằng “công lý hình sự, sau cùng, cần phải trừng phạt, thay vì trả thù và ủng hộ việc rời khỏi các hình thức trừng phạt công khai khắc nghiệt và bạo lực4 . Tuy nhiên, cải cách này không được hình thành do “sự tôn trọng mới đối với nhân tính của những người bị kết án”, mà thay vào đó được phát triển “như một khuynh hướng tiến về phía công lý mềm mỏng và tinh tế hơn”, để hiệu quả trừng phạt tăng lên và sử dụng quyền trừng phạt như một cơ chế kiểm soát hiệu quả hơn5 . Foucault viết rằng những cải cách này là một “sự sắp xếp lại quyền lực trừng phạt”. Trong Giám sát và Trừng phạt , Foucault đã đưa ra một luận điểm khác, không coi sự thay đổi là nguyên nhân của sự hợp lý hay giác ngộ mà là sự phức tạp ngày càng tăng lên của quyền lực. Giờ đây, chính niềm tin chắc chắn sẽ bị trừng phạt làm con người tránh xa tội ác chứ không phải nỗi sợ hãi khi bị hành quyết công khai. Hình phạt đã ngừng tập trung vào nhục hình như kỹ thuật gây đau đớn, thay vào đó là sự tước đoạt tài sản hay quyền công dân của người phạm tội.

Như vậy, cảnh tượng trừng phạt công khai giảm đi không phải vì nó mâu thuẫn với các khái niệm nhân văn mà vì tính hiệu quả của nó không còn nữa, hơn nữa, từ cuối thế kỷ 18, nghệ thuật hành quyết và tra tấn công khai như một nghi thức đã lụi tàn, thay vào đó là sự xuất hiện cơ chế hình phạt mới, nhà tù, Foucault gọi nó là “văn hoá carceral”. “Văn hóa carceral” đại diện cho một hệ thống nhà tù đang phát triển. Theo Foucault, đó là một kỹ thuật tinh vi hơn để khuất phục xã hội. Khi mô tả văn hóa carceral, Foucault sử dụng mô hình Panopti[1]con nổi tiếng của Jeremy Bentham như một phép ẩn dụ lạnh lùng cho văn hóa carceral vàáp dụng mô hình này ở cấp độ xã hội, nơi mọi người bị kỷ luật để tự kiểm soát vào trạng thái bình thường theo quy định thông qua các tổ chức khác nhau, chẳng hạn như trường học, bộ máy quan liêu hành chính và đặc biệt là gia đình. Foucault lập luận, xã hội hiện đại là một xã hội được đặc trưng bởi các hệ thống kỷ luật và kiểm soát được thể chế hóa này. Đó là một xã hội dựa trên sự giám sát toàn cảnh.

2.2. Hình phạt tử hình

Nhiều quan điểm triết học tập trung vào hình phạt tử hình là hiện đại và tương đối gần đây. Tuy nhiên, cụm từ “capital punishment” có từ lâu đời hơn, được sử dụng trong gần một thiên niên kỷ để biểu thị hình phạt tử hình. Việc thực thi hình phạt tử hình trên thực tế đã có từ xa xưa, xuất hiện sớm hơn nhiều so với những thuật ngữ quen thuộc được sử dụng để biểu thị nó từ lâu. Châu Âu thời trung cổ và đầu thời hiện đại vẫn giữ lại danh sách các tội ác phải tử hình và đáng chú ý là đã mở rộng các hình thức xử tử ngoài các tập tục cổ xưa phổ biến như ném đá, đóng đinh, dìm nước, đánh đến chết hoặc đầu độc. Vào thời Trung Cổ, cả chính quyền thế tục và giáo hội đều tham gia vào các vụ hành quyết được thiết kế có chủ ý nhằm tra tấn tàn bạo, chẳng hạn như chặt đầu, thiêu sống, phanh thây, treo cổ, mổ bụng, dùng giá treo, dùng vít vặn, ấn bằng tạ, luộc trong nước, dầu sôi, mổ xẻ và thiến công khai. Sự tàn bạo như vậy được tiến hành một cách công khai như một nghi thức - một yếu tố quan trọng hoặc thậm chí thiết yếu của hình phạt tử hình không chỉ là cái chết của bị cáo mà còn là quá trình giết người và phơi bày cái chết một cách công khai. Trong “thế giới mới” về việc sử dụng hình phạt tử hình ở các thuộc địa của Mỹ chịu ảnh hưởng của Anh nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.

Khi thảo luận cụ thể về hình phạt tử hình, Foucault phản đối bất kỳ sự biện minh nào cho việc thực hành hình phạt, tin rằng việc thực hành hình phạt không được thúc đẩy bởi việc theo đuổi công lý hợp lý, mà thay vào đó là mong muốn sử dụng quyền lực và phụ thuộc người khác. Do đó, Foucault bác bỏ không chỉ án tử hình, mà còn bất kỳ hình thức trừng phạt vô thời hạn nào, khẳng định rằng việc bãi bỏ án tử hình trong khi vẫn giữ nguyên án chung thân chỉ đơn thuần là thay đổi nhưng mặt khác không làm thay đổi bản chất và địa điểm của quyền lực mà xã hội nắm giữ đối với tội phạm. Tuy nhiên, trong bài phê bình của mình, Fou[1]cault không đưa ra quan niệm của mình về các hình phạt thay thế hoặc một chương trình bãi bỏ án tử hình.

Foucault phân tích sự thay đổi từ một nhà nước dựa trên quyền lực chủ quyền sang một nhà nước dựa trên quyền lực sinh học. Trong quốc gia sử dụng quyền lực chủ quyền, người cai trị sở hữu quyền lực để lấy đi mạng sống của công dân mình, cho dù “trên giàn giáo hay trên chiến trường.” Tuy nhiên, đây là một sức mạnh tiêu cực, vì chủ quyền có thể lấy đi mạng sống của các đối tượng của mình, nhưng không thể cải thiện chúng. Ngược lại, nhà nước chính trị sinh học hiện đại thực hiện sức mạnh tích cực để nâng cao đời sống của người dân. Foucault cũng sử dụng phương pháp phân tích này để thảo luận về hình phạt tử hình như một biểu hiện của quyền lực trong bài tiểu luận: “ Pompidou’s Two Deaths”. Foucault phân tích việc kết án và hành quyết Buffet và Bontemps, những người đàn ông bị giam giữ đã thực hiện hai vụ giết người trong một nỗ lực tẩu thoát. Foucault lập luận rằng Pompidou đã không chấp thuận lời xin ân xá của Buffet và Bontemps vì “trung thành với sự thúc đẩy lợi tích đa số của quốc gia”.6 Do đó, Pompidou đã thể hiện sự sẵn sàng hành động vì lợi ích của số đông người dân của mình để cho phép hình phạt khủng khiếp nhất bằng cách từ chối tha thứ cho Buffet và Bontemp.

Tuy nhiên, Foucault cho rằng việc áp dụng các bản án tù chung thân thay cho hình phạt tử hình không có tác dụng gì mấy tới sự khuất phục của nhà nước đối với công dân thông qua hình phạt và “quyền giết người”. Foucault lập luận rằng hệ thống tư pháp hình sự trong lịch sử đã chia tội phạm thành hai loại: những người có thể được cải tạo thông qua án tù và những người không thể cứu vãn “ngay cả khi... bị trừng phạt vô thời hạn”. Do đó, hệ thống tư pháp hình sự giả định rằng loại tội phạm thứ hai phải bị kết án tử hình, một hình phạt dứt khoát. Foucault nhận ra rằng một bản án tù chung thân về cơ bản cũng là dứt khoát. Ông dự đoán rằng ngay cả sau khi án tử hình được bãi bỏ, cuộc tranh luận sẽ tiếp tục về việc có nên áp dụng bản án cuối cùng thứ hai là tù chung thân hay không, phê phán một hệ thống tư pháp hình sự “khẳng định rằng đó là vì mục đích sửa chữa nhưng vẫn duy trì rằng một số cá nhân không thể được sửa chữa.

Thực chất, hình phạt tử hình là chế tài hình sự nghiêm khắc nhất của một nhà nước, dẫn đến hậu quả là tước đi quyền sống vĩnh viễn, loại trừ một cá nhân ra khỏi xã hội. Với tư cách là một loại hình phạt “đặc biệt”, hình phạt tử hình còn có các đặc điểm riêng thể hiện bản chất “đặc biệt mà các loại hình phạt khác không có. Có thể kể đến như việc hình phạt tử hình là chế tài hình sự nghiêm khắc nhất, dẫn đến hậu quả là tước đoạt mạng sống của người phạm tội, không một hình phạt nào trong hệ thống hình phạt có khả năng này. Hình phạt tử hình tước bỏ quyền được sống là quyền tự nhiên quan trọng nhất của con người.

2.3. Tính hợp lý của việc áp dụng hình phạt tử hình

Hình phạt tử hình đã tồn tại hàng thiên niên kỷ cho đế ngày nay. Sự xuất hiện giữa thế kỷ 20 của một chế độ nhân quyền quốc tế và những tranh cãi về hiến pháp của Mỹ đã làm dấy lên một sự tập trung mang tính triết học mới vào các lý thuyết về hình phạt và án tử hình, bao gồm cả sự tùy tiện, sai lầm hoặc phân biệt đối xử trong thể chế hình phạt tử hình của Mỹ.

Câu hỏi triết học trọng tâm về hình phạt tử hình là một trong những biện minh về mặt đạo đức: dựa trên cơ sở nào, nếu có, việc nhà nước cố tình giết những người phạm tội đã được xác định là một phản ứng chính đáng về mặt đạo đức đối với hành vi phạm tội tự nguyện, ngay cả những hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất, chẳng hạn như giết người? Đối với các câu hỏi về tính đạo đức của hình phạt, hai cách tiếp cận khác nhau thường được phân biệt: chủ nghĩa báo thù, tập trung vào bản chất hành vi trong quá khứ đáng bị trừng phạt bằng cái chết, và chủ nghĩa vị lợi hoặc chủ nghĩa kết quả, chú ý đến tác động của hình phạt tử hình, đặc biệt là bất kỳ hình phạt nào. có tác dụng ngăn chặn nhiều tội phạm hơn thông qua việc răn đe hoặc vô hiệu hóa. Việc tìm hiểu đầy đủ xem liệu hình phạt tử hình có hợp lý về mặt đạo đức hay không sẽ dẫn đến việc xem xét cách giải thích mang tính quy phạm về nhà nước hiện đại, các nền tảng, chức năng phù hợp và quyền hạn hình sự của nó.

3. Kết luận

Tóm lại, nhóm tác giả cho rằng quyết định về việc áp dụng án tử hình hoặc án chung thân không chỉ dựa trên quan điểm cá nhân mà cần phản ánh tư duy của xã hội Việt Nam, giữ gìn truyền thống văn hóa lâu đời. Dù một số quốc gia quyết định không sử dụng án tử hình, pháp luật Việt Nam không nhất thiết bắt buộc ngay lập tức phải thay đổi theo họ. Điều quan trọng là pháp luật không chỉ thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị mà còn phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Bàn về việc sử dụng bạo lực để chống lại bạo lực, chúng tôi cho rằng khi đối mặt với những hành vi vô nhân tính như giết người, việc không áp dụng bạo lực để ngăn chặn và tiêu diệt có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn. Xã hội được xem như một chuỗi quan hệ nguyên nhân và kết quả, và một “nhân” sai lầm có thể tạo ra nhiều “quả” khủng khiếp đối với nhân loại.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
1. Hugo Adam Bedau and Erin Kelly, “Punishment”, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Fall 2015 Edi[1]tion), Edward N. Zalta (ed.)
2. Michel Foucault, “Questions of Method,” in Power, ed. James D. Fabion (New York: The New Press, 2000), 224, 225
3. Michel Foucault, “Questions of Method,” in Pow[1]er, ed. James D. Fabion (New York: The New Press, 2000), 225
4. Foucault.M (2022) , Giám sát và trừng phạt: Nguồn gốc nhà tù, Nxb Trí thức, tr.100
5. Foucault.M (2022) , Giám sát và trừng phạt: Nguồn gốc nhà tù, Nxb Trí thức, tr.106
6. Michel Foucault, “Pompidou’s Two Deaths,” in Pow[1]er, ed. James D. Faubion (New York: The New Press, 2000), 420.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Foucault.M (2000) “Questions of Method,” in Power, ed. James D. Fabion (New York: The New Press)
2. Foucault.M (2000), “Pompidou’s Two Deaths,” in Power, ed. James D. Faubion (New York: The New Press)
3. Foucault.M (2000), “Against Replacement Penal[1]ties,” in Power, ed. James D. Faubion (New York: The New Press)
4. Foucault.M (2022) , “Giám sát và trừng phạt: Nguồn gốc nhà tù”, Nxb Trí thức




TRIẾT HỌC+
triethoc.info - Blog chuyên ngành triết học






Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?