Đặc trưng của tri thức triết học và sự biến đổi đối tượng nghiên cứu của triết học qua các giai đoạn lịch sử?
Đặc trưng của tri thức triết học và sự biến đổi đối tượng
nghiên cứu của triết học qua các giai đoạn lịch sử?
1. Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học
Triết học với tính cách là một khoa học xuất hiện rất sớm
trong thời kỳ cổ đại, tuy nhiên sự hình thành và phát triển của triết học, quan
niệm về triết học cũng thay đổi và phát triển gắn liền với những điều kiện lịch
sử xã hội nhất định. Triết học xuất hiện ở chế độ chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ
thứ VIII - VI trước công nguyên. Sự ra đời của triết học có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi
mà trình độ nhận thức của con người có khả năng khái quát và trừu tượng hóa những
cái riêng lẻ, cụ thể để nắm bắt được cái chung, cái bản chất và qui luật của hiện
thực. Bởi, đối tượng triết học là thế giới vật chất và con người được nó nghiên
cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc xã hội khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành
giai cấp. Bởi, nó phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp, những lực lượng
xã hội nhất định.
Cho nên, triết học mang tính giai cấp. Những nguồn gốc trên
có quan hệ mật thiết với nhau mà sự phân chia chúng cũng chỉ có tính tương đối.
Thuật ngữ triết học theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là “trí”, bao hàm sự hiểu
biết sâu rộng của con người về hiện thực và vấn đề đạo lý của con người. Còn
theo gốc Hy lạp có nghĩa là “yêu mến sự thông thái” hoặc “làm bạn với trí tuệ”,
xuất phát từ một thành ngữ La tinh cổ có tên là: philosophia. Như vậy, nội dung
thuật ngữ triết học bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu biết của
con người, sự giải thích hiện thực bằng hệ thống tư duy lôgíc) và yếu tố nhận định
(đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động) về mặt xã hội.
Cho nên, dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết
học biểu hiện khả năng nhận thức và đánh giá của con người, nó tồn tại với tính
cách là một hình thái ý thức xã hội. Khái quát lại, theo quan điểm của triết học
Mác - Lênin thì triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Hệ thống tri
thức lý luận chung nhất của con người về thế giới là các hệ thống lý luận của
triết học với tính cách là một khoa học và nó khác với hệ thống lý luận của các
khoa học cụ thể ở tính chất chung và phổ biến nhất của nó về hiện thực.
Hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về vị
trí, vai trò của con người không chỉ khẳng định con người có khả năng nhận thức
các qui luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; mà còn khẳng định vai trò của triết
học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của con người thông qua hoạt động thực tiễn
và con người là chủ thể của lịch sử.
2. Sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch
sử
Đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người được
triết học nghiên cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và
phát triển có tính chất lịch sử. Nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải
quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả
năng nhận thức của con người.
Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học
tự nhiên1, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng
riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này coi triết học
là khoa học của các khoa học. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã đạt được nhiều
thành tựu và nó ảnh hưởng to lớn đối vơi sự lịch sử phát triển của các khoa học.
Thời trung cổ, ở Tây âu khi quyền lực của giáo hội bao trùm
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì triết học tự nhiên bị thay thế bởi triết học
kinh viện2, phụ thuộc vào thần học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho
Kinh thánh.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ở thế kỷ XV, XVI đã tạo
ra cơ sở vững chắc cho sự phục hưng triết học và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn,
các khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách
là những khoa học độc lập so với triết học. Chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở
tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh
cao ở thế kỷ XVII – XVIII như chủ nghĩa duy vật của Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ, Điđrô,
Xpinôza, v.v… trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong chủ
nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen. Điều kiện kinh tế – xã hội và sự
phát triển của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác,
đoạn tuyệt với quan niệm triết học “khoa học của các khoa học”. Triết học
mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu các qui
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học phương Tây hiện đại muốn từ bỏ quan niệm truyền thống
về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình, nhưng triết học bao
giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn
đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới
của vật chất, về khả năng nhận thức của con người.
Đánh giá bài viết?