TS. Dương Quốc Quân - Tự chủ đại học: thuận lợi và thách thức

TỰ CHỦ ĐẠI HỌC: THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC
TS. Dương Quốc Quân
Tham luận Hội thảo Khoa học, Học viện Tài chính

Tự chủ là con đường tất yếu để các trường đổi mới phương thức quản trị, chuyển từ đào tạo theo vốn tự có sang đào tạo theo nhu cầu của thị trường để nâng cao chất lượng. Đó cũng là biện pháp để quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học ở nước ta hiện nay.

1. Nội hàm khái niệm: Tự chủ đại học

Tự chủ của một chủ thể nào đó chính là việc người đó có thể làm mọi việc mà pháp luật hoặc các quy định của các cấp có thẩm quyền cho phép và thực thi những quyền hạn đã được cụ thể hoá trong các quy định liên quan đến chủ thể đó.

Theo Anderson & Johnson (1998) các thành tố trong tự chủ đại học bao gồm: Tự chủ nguồn nhân lực: Với quyền tự chủ này, trường được quyền quyết định về các vấn đề liên quan đến điều kiện tuyển dụng, lương bổng, sử dụng nguồn nhân lực, bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí trong khu vực học thuật và khu vực hành chính; Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên; Tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục như phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nội dung chương trình và giáo trình học liệu; Tự chủ trong các chuẩn mực học thuật, như các tiêu chuẩn của văn bằng, các vấn đề liên quan đến kiểm tra và kiểm định chất lượng; Tự chủ trong nghiên cứu và xuất bản, giảng dạy và hướng dẫn học viên cao học, các ưu tiên trong nghiên cứu và quyền tự do xuất bản; Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính và tài chính, quản lý và sử dụng ngân sách, các nguồn tài chính của trường.

Ở Việt Nam, từ năm 2005, quyền tự chủ của trường đại học đã được Luật Giáo dục ghi nhận với nội dung tương tự quan niệm của các nước phát triển: “Trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và theo điều lệ nhà trường trong các hoạt động sau đây:

1. Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo;

2. Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng;

3. Tổ chức bộ máy nhà trường; tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhà giáo, cán bộ, nhân viên;

4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực;

5. Hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài theo quy định của Chính phủ”.

Quyền tự chủ được tái khẳng định trong Luật Giáo dục đại học (GDĐH) năm 2012: “Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, KH&CN, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học”.


Về học thuật, lần đầu tiên các trường được tự chủ xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh; tự in phôi bằng, cấp bằng cho tất cả các trình độ mà trường đào tạo. Đây là một bước tiến trong tư duy quản trị đại học. Tuy nhiên, nó vẫn chưa phải là một bước ngoặt có khả năng tạo ra sự đột phá, vì theo quy định của Luật, Nhà nước vẫn đóng vai trò kiểm soát rất lớn.

Ở giác độ quản lý nhà nước, có quan điểm cho rằng, nếu mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học trên cả nước mà không quản lý được thì chẳng khác nào việc ào ạt mở các trường đại học, và, tự chủ không phải muốn làm gì thì làm. Ở giác độ trường đại học, có chuyên gia giáo dục khuyến nghị, phải sớm có quyết định dứt khoát về thực hiện cơ chế tự chủ cho giáo dục đại học, xem đây là giải pháp tạo đột phá nâng cao chất lượng của bậc học này. Phải trao quyền tự chủ đầy đủ, trọn vẹn cho các trường, tôn trọng các quy luật của thị trường.

Tóm lại, trao quyền tự chủ trọn vẹn cho các trường không có nghĩa là bỏ qua vai trò quản lý của Nhà nước mà ngược lại. Chỉ có điều, vai trò quản lý đó không phải ở việc xác định lộ trình, thời điểm nào, trường nào được tự chủ và tự chủ với mức độ ra sao, được làm gì và không được làm gì mà phải tập trung vào việc kiểm định nghiêm ngặt, khách quan và chính xác chất lượng, hiệu quả đào tạo, công khai các kết quả đó để người học có cơ sở lựa chọn.

Như vậy, giao tự chủ cho các trường Đại học là cần thiết tạo điền kiện cho các trường chủ động trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản trị nhà trường.

2. Thuận lợi và khó khăn trong thực hiện tự chủ đại học
2.1. Thuận lợi
2.1.1. Đối với trường đại học, cơ sở giáo dục đại học.

Tự chủ được xem như là một con đường để tìm kiếm phương cách thúc đẩy sự xuất sắc trong học thuật, trong quản lý tài chính, và trong quản trị của các cơ sở giáo dục. Đi chệch ra khỏi quỹ đạo đó, có thể kết luận một cách chắc chắn rằng tự chủ đã được sử dụng một cách sai lầm.

Tự chủ trong học thuật là sự tự do của cơ sở giáo dục đại học trong việc quyết định những vấn đề thuộc về học thuật như là chương trình, tài liệu giảng dạy, phương pháp sư phạm, kỹ thuật đánh giá thành quả học tập của sinh viên.

Tự chủ trong quản trị là sự tự do của cơ sở đào tạo trong việc sắp xếp và tổ chức các sự kiện, các mối quan hệ liên quan đến công việc lập kế hoạch, tổ chức và điều phối. Sự tự do trong công việc như vậy sẽ thúc đẩy sự năng động và sự phát triển của từng cá nhân và kéo theo đó là sự vững mạnh của cơ sở giáo dục đại học.

Sự tự chủ về tài chính là sự tự do của cơ sở đào tạo trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính theo chiến lược ưu tiên mà mình lựa chọn. Tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt của một vấn đề duy nhất. Trách nhiệm giải trình khiến các cơ sở giáo dục đại học phải điều chỉnh sự tự do đã được trao cho họ theo con đường của sự tự chủ.

Thành tựu mà tự chủ có thể mang lại từ những thuận lợi là:
Kinh nghiệm từ nền giáo dục Ấn Độ: Những giải pháp đột phá, các ý tưởng sáng tạo được khuyến khích và có cơ hội trở thành hiện thực; Cơ hội khai thác tối đa mọi tiềm năng; Chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học; Giáo dục đại học phục vụ lợi ích xã hội; Giáo viên cống hiến hết mình cho hệ thống giáo dục đại học; Xây dựng niềm tin giữa sinh viên và giáo viên; Minh bạch trong giảng dạy và đánh giá; Gia tăng cơ hội cải tiến giáo dục; Không phải mất nhiều thời gian với các thủ tục hành chính trong giáo dục đại học.

Kinh nghiệm từ Đại học Quốc gia Hà Nội: Về cơ bản ĐHQGHN đã xây dựng thành công và phát huy thế mạnh mô hình đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực; Cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao tiếp cận chuẩn quốc tế, bồi dưỡng nhân tài cho phát triển kinh tế- xã hội đất nước; Tiên phong đổi mới phương pháp đào tạo, xây dựng và phát triển các ngành mới có tính liên ngành cao, tổ chức đào tạo theo chuẩn quốc tế, đào tạo bằng kép ngành kép giữa các đơn vị, đi đầu trong việc giảm quy mô đào tạo đại học không chính quy, tăng quy mô đào tạo sau đại học trên cơ sở đảm bảo chất lượng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các bộ, ban, ngành, địa phương; Đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước nhờ nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động KH-CN, đạt được một số kết quả tầm cỡ quốc tế: tăng số lượng đề tài, dự án KHCN nhờ đấu thầu và hợp tác với các địa phương, doanh nghiệp; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tiếp cận trình độ quốc tế; nghiên cứu KHCN có những đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế- xã hội đất nước; gắn kết NCKH và đào tạo để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động NCKH góp phần quan trọng trong việc đào tạo chất lượng cao, dẫn đầu về nghiên cứu khoa học sinh viên; Góp phần nâng cao uy tín quốc tế và vị thế của giáo dục đại học Việt Nam trên trường quốc tế; Hiện đại hoá trang thiết bị, tiên phong xây dựng thành công một số nhóm nghiên cứu/phòng thí nghiệm đạt trình độ quốc tế; Chủ động thực hiện một cách sáng tạo chủ trương, đường lối, các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về giáo dục đào tạo.

Kinh nghiệm từ Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Chủ động trong thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học cụ thể là đã mạnh dạn đã triển khai Chương trình tiên tiến quốc tế Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh; Chương trình tiên tiến quốc tế Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh sẽ giúp cho sinh viên tốt nghiệp được thừa nhận trên thị trường lao động quốc tế và được liên thông một cách đầy đủ tại các trường đại học nước ngoài; Thực hiện chương trình tiên tiến quốc tế Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Trường cần phải nâng chuẩn đầu ra đối với tất cả các ngành, chuyên ngành đào tạo và đã công bố công khai, rộng rãi cho xã hội, người học; Tăng cường kỹ năng, kiến thức theo yêu cầu của xã hội, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học thích ứng, hòa nhập ngay môi trường làm việc sau khi tốt nghiệp; Mở các ngành trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ phù hợp điều kiện đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất, đáp ứng nhu cầu xã hội; Tổ chức Kiểm định chất lượng giáo dục đại học mạng lưới các trường đại học ASEAN kiểm định chương trình đào tạo ngành Ngân hàng và kiểm định toàn bộ chương trình đào tạo của Trường theo lộ trình; Xây dựng phương án tuyển sinh riêng phù hợp với yêu cầu, lộ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo và yêu cầu xã hội; Thực hiện in, cấp phát và quản lý văn bằng cho các trình độ đào tạo ưu thế cho người học có cơ hội tiếp cận và tìm được công việc phù hợp ngay sau khi tốt nghiệp; Điều này đáp ứng quyền lợi chính đáng của người học và mong muốn của các cơ sở giáo dục - đào tạo, cũng như đáp ứng quy luật cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường lao động; Xác định là trường đại học định hướng nghiên cứu, vì vậy công bố quốc tế là bắt buộc trên các tạp chí theo chuẩn ISI, Scopus, Trường đã xây dựng Quỹ Nghiên cứu hàn lâm với kinh phí 3 tỷ đồng/năm; Theo đó, mức hỗ trợ từ 100 - 200 triệu đồng/bài; Tự chủ liên kết đào tạo, nghiên cứu và triển khai với đối tác quốc tế thu hút sự quan tâm của xã hội và người học, ngày càng có nhiều sinh viên nước ngoài tham gia nghiên cứu và học tập; Sự vận hành của bộ máy quản lý: ngày càng hiệu quả, linh hoạt. Trên cơ sở định biên phù hợp với khối lượng công việc nhằm khai thác hết công suất làm việc, tiết kiệm chi phí quản lý. Cơ chế tự chủ đã góp phần tăng cường trách nhiệm của cán bộ, viên chức nhà trường; Cơ sở vật chất: nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để đầu tư tăng cường các điều kiện dạy và học, từng bước đáp ứng theo yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; Thực hiện tự chủ tài chính trường đảm bảo cân đối thu, chi, duy trì các hoạt động chi thường xuyên và từng bước tập trung triển khai các hoạt động theo chiến lược đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, nghiên cứu khoa học tại trường. Nguồn thu của trường được tăng cường quản lý, hạn chế thất thu, các khoản chi được kiểm soát chặt chẽ, trên tinh thần tiết kiệm, hiệu quả; Cơ chế tự chủ tài chính đã giao quyền cho trường trong việc tổ chức phân phối thu nhập theo nhiều hình thức, đảm bảo đúng chế độ, theo kết quả lao động và hiệu quả công việc của từng cán bộ, viên chức. Thu nhập của cán bộ, viên chức trong giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đảm bảo ổn định và có xu hướng tăng qua các năm. Đây cũng là một trong những nhân tố khá quan trọng để trường hạn chế tình trạng bị chảy máu chất xám và thu hút được nhân tài về với nhà trường; Thực hiện tốt chính sách miễn, giảm học phí, học bổng đối với sinh viên diện chính sách, sinh viên nghèo học giỏi, giúp các em có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ học tập, góp phần phát triển bản thân, đóng góp kinh tế cho gia đình và xã hội.

2.1.2. Đối với giảng viên

Tự chủ của người dạy chính là việc người dạy có thể làm mọi việc liên quan đến quá trình dạy học mà cơ sở đào tạo đã quy định công khai và thực thi những quyền hạn đã được cụ thể hoá trong  quy chế tổ chức và hoạt động của học chế được nhà trường và cấp có thẩm quyền thông qua và tự đánh giá theo các quy định đó. Tự chủ của người dạy cũng chính là việc người dạy thực thi những quyền hạn và trách nhiệm đã được cụ thể hoá trong đề cương chi tiết môn học theo tiến độ và hình thức do chính người dạy đề ra, được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Tự chịu trách nhiệm của người dạy là việc họ phải thực hiện đầy đủ các quy định về hoạt động dạy học và chất lượng của hoạt động đó (nếu sinh viên không lựa chọn buổi lên lớp của họ thì họ "tự mất việc") theo các quy định, sẵn sàng giải trình và minh bạch hoá các kết quả đánh giá của người học, của đồng nghiệp và tự chịu trách nhiệm về các kết quả đó.

Tự chủ đại học sẽ giúp các giảng viên đại học hoàn thành tốt ba nhiệm vụ truyền thống của mình là giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Các năng lực của giảng viên đại học được nâng cao liên tục như: Ham hiểu biết tri thức mới, làm chủ tri thức; Hiểu biết về quá trình học ở đại học; Hiểu sinh viên học tập như thế nào; Quan tâm đến sự phát triển của sinh viên; Luôn nâng cao trình độ chuyên môn; Sẵn sàng cộng tác với đồng nghiệp và học tập từ đồng nghiệp; Luôn rút ra kinh nghiệm thực tế chuyên môn.

Đội ngũ giảng viên cũng được cơ cấu lại gọn nhẹ, hiệu quả hơn tại các trường tự chủ; việc đào tạo, xây dựng đội ngũ giảng viên chất lượng để xây dựng được những chương trình giảng dạy phù hợp trong thời kỳ hội nhập được đặc biệt trú trọng.

2.1.3. Đối với sinh viên

Bên cạnh việc được tự chủ tài chính, các trường đại học còn tự chủ trong chương trình đào tạo, quy hoạch đội ngũ, liên kết quốc tế và nhiều lĩnh vực khác. Theo đó, môi trường học tập của sinh viên sẽ ngày càng hiện đại, nhằm đảm bảo tiêu chí đào tạo phù hợp với nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Mức gia tăng học phí được dùng để đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, đổi mới chương trình. Phần lãi từ nguồn thu học phí được các trường đưa vào Quỹ Học bổng hỗ trợ sinh viên.

Trường đại học tự chủ sẽ thu hút được nguồn nhân lực giỏi. Việc này sẽ giúp sinh viên có cơ hội được học với chất lượng đào tạo tốt nhất. Việc tự chủ tài chính là điều kiện then chốt giúp các trường mạnh dạn đầu tư nhằm đào tạo ra đội ngũ cử nhân chất lượng cao. Mục tiêu cuối cùng là đào tạo ra những sinh viên có chất lượng.

Trường đại học tự chủ rất tích cực áp dụng đồng bộ các phương pháp đào tạo và nghiên cứu khoa học hiện đại theo hướng hội nhập quốc tế, đồng thời siết chặt chất lượng đội ngũ giảng viên. Trách nhiệm đặt ra cho nhà trường là làm sao chọn được ngành nghề đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế. Sinh viên là một khách hàng đặc biệt quan trọng. Do đó, phải áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại để đáp ứng được nhu cầu của người học để người học chọn vào trường mình.

Tự chịu trách nhiệm của người học là việc họ phải tự đánh giá và giám sát việc thực hiện các quy định của học chế tín chỉ, sẵn sàng giải trình và minh bạch hoá các kết quả tích luỹ của mình và chịu trách nhiệm về các kết quả học tập của mình.

2.2. Khó khăn
2.2.1. Đối với trường đại học, cơ sở giáo dục đại học

Hiện nay nhiều quy định văn bản pháp lý chưa kịp thay đổi để hỗ trợ cho các trường đại học tự chủ. Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017 của Chính phủ chỉ mới là thí điểm nên các văn bản pháp luật không thay đổi theo. Dưới góc độ quản lý tại các trường đại học công lập, do sự thiếu định hướng từ các cơ quan quản lý nhà nước cho nên bản thân các trường khá lúng túng trong việc xây dựng chiến lược và tầm nhìn rõ rệt cho mình.

Quyền tự chủ của trường đại học đã được thừa nhận từ lâu nhưng chưa tạo ra chuyển biến đáng kể, ngoài việc do những vướng mắc về cơ chế, thì một phần quan trọng khác là do các trường chưa đủ năng lực và thiếu sự sẵn sàng. Các trường đại học vẫn chưa mạnh dạn thực thi sự tự chủ, các vẫn mang tâm lý e dè, thói quen phụ thuộc nhiều vào sự quản lý của Nhà nước. Các trường đại học công lập được bao cấp tư duy đã quá lâu và chưa có tinh thần “entrepreneurial” - chấp nhận tự mình đương đầu với thách thức, vượt qua nó và được hưởng thành quả tùy theo chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình. Họ vẫn muốn tận dụng những ưu thế của trường công lập thay vì chấp nhận cạnh tranh tự do và công bằng trong thế giới phẳng. Một số nguyên nhân chủ quan đang cản trở sự tự chủ là:

Thứ nhất, chất lượng đội ngũ yếu

Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên của trường nào cũng thiếu và yếu. Đặc biệt là tập quán “tự túc tự cấp” làm cho lực lượng của các trường ngày càng yếu đi. Phần lớn các trường đại học, nhất là những trường lâu năm, thường chỉ giữ lại những sinh viên do chính trường mình đào tạo ra để làm giảng viên. Trừ một số trường hợp trúng tuyển đi học nước ngoài sau khi tốt nghiệp đại học, trong suốt thời gian học đại học, cao học và làm nghiên cứu sinh, những sinh viên này chỉ biết các thầy ở trường mình, hầu như không tiếp xúc với những chuyên gia khác, những trường phái khác. Ở lại trường làm giảng viên, họ tiếp tục nép dưới bóng những ông thầy cũ, và tiếp tục truyền giảng những giáo điều cũ cho các lớp sinh viên mới. Đó là chưa kể nhiều trường hợp những người có chức có quyền và giảng viên giữ lại trường con cháu mình, mặc dù những học trò này không hẳn là những sinh viên xuất sắc. Giống như tình trạng hôn nhân cận huyết, tất cả những điều này dẫn đến hậu quả không mong muốn: các thế hệ giảng viên và học trò suy giảm dần năng lực sáng tạo, năng lực tiếp thu cái mới, từ đó làm suy giảm năng lực chung của trường đại học.

Thứ hai, xu hướng đào tạo chạy theo số lượng vì lợi ích kinh tế
Sự thiếu sẵn sàng của các trường thể hiện rõ ở kỳ thi tuyển sinh đại học những năm gần đây. Thực hiện quy định của Luật GDĐH, Bộ GD&ĐT khuyến khích các trường tổ chức tuyển sinh riêng. Nhưng chỉ có gần 1/5 trường trong số gần 500 trường đại học, cao đẳng hưởng ứng đề nghị này, chủ yếu là tuyển sinh riêng cho một số ngành đặc thù: Những ngành khó tuyển sinh nhưng xã hội cần như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản thì tuyển sinh dựa vào kết quả học tập và kết quả thi tốt nghiệp phổ thông. Những ngành đòi hỏi năng khiếu như sân khấu, điện ảnh, nhạc, họa,… thì ngoài việc dựa vào kết quả học tập và kết quả thi tốt nghiệp phổ thông còn tổ chức thi môn năng khiếu. Các ngành khác của những trường này vẫn tham gia kỳ thi tuyển sinh “ba chung” của Bộ. Giải thích vì sao các trường tốp đầu cũng không muốn tuyển sinh riêng, Thứ trưởng Bùi Văn Ga nói: “Với thi ba chung như mọi năm thì các trường tốp trên rất yên tâm không suy nghĩ về tuyển sinh riêng, cái khó nhất là làm đề thi thì Bộ đã làm cho các trường, họ không thiếu nguồn tuyển, nếu làm riêng thậm chí sẽ có nhiều rủi ro hơn nên các trường không muốn tuyển sinh riêng”. Điều này cho thấy tâm lý cầu an, thụ động là trở ngại lớn trong quá trình đổi mới GDĐH nói chung cũng như thực hiện quyền tự chủ nói riêng.

Thứ ba, trách nhiệm giải trình thấp
Quyền tự chủ một mặt đảm bảo cho trường đại học được tự quyết định các vấn đề của mình, nhưng mặt khác lại đề cao trách nhiệm của nhà trường trước xã hội – từ những đối tượng liên quan trực tiếp như Nhà nước, nhà đầu tư, người học và gia đình họ đến những người đóng thuế để cung cấp ngân sách hoặc để kiến tạo môi trường hoạt động cho nhà trường. Trách nhiệm này thường được gọi là trách nhiệm giải trình, bao gồm các nghĩa vụ cung cấp thông tin, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của nhà trường.

Trong khi nỗ lực đòi hỏi và thực thi quyền tự quyết định, nhiều trường đại học nước ta lại tỏ ra miễn cưỡng, hình thức trong việc minh bạch hóa các thông tin về tài chính, đào tạo và việc làm; đồng thời không phải chịu trách nhiệm về điều kiện đào tạo kém, chất lượng đào tạo yếu, khả năng tìm việc làm và hòa nhập thị trường lao động thấp của sinh viên trường mình. Trong tuyển sinh, hầu hết các trường đều có khuynh hướng hạ thấp yêu cầu, lấy cho đủ chỉ tiêu, thậm chí sẵn sàng vượt chỉ tiêu để thu được nhiều học phí.

Quá trình đào tạo hầu như không sàng lọc, chủ yếu cũng để tránh giảm thu nhập của trường. Chỉ trừ những sinh viên tự ý bỏ học hoặc vi phạm kỷ luật nặng đến mức phải buộc thôi học, hễ đã vào được trường thì sẽ tốt nghiệp và có bằng cử nhân. Sinh viên ra trường thất nghiệp được coi là vấn đề của xã hội, không gắn với trách nhiệm của bất cứ trường nào. Thậm chí, khi một số tỉnh, thành từ chối nhận sinh viên tốt nghiệp đại học ngoài công lập và đại học tại chức, khá nhiều lãnh đạo trường đã lên tiếng trên báo chí, coi đây là sự kỳ thị, mà không thấy nguyên nhân dẫn đến quyết định này là chất lượng thấp của những cử nhân mà họ đã đào tạo ra.

Những hạn chế trên đây, một mặt khiến cơ quan quản lý nhà nước không mạnh dạn trao quyền tự chủ đầy đủ cho các trường, mặt khác có thể khiến xu hướng thương mại hóa giáo dục phát triển, trong khi chất lượng nguồn nhân lực đào tạo ra ngày càng thấp.

Những hạn chế của các trường đại học trong quá trình tự chủ:
Những thành tựu đạt được của quá trình tự chủ hoá của các cơ sở giáo dục đại học chỉ là bước đầu, do đó vẫn còn cần phải nỗ lực một thời gian lâu dài nữa; Các trường đại học hiện nay không hoàn toàn tự chủ về học thuật, về quản trị, và về tài chính, dẫn đến những người đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học cũng không đủ quyền hành để thực thi các cải cách cần thiết; Các cơ sở tự chủ đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt tài chính; Sự yến kém mang tính hệ thống ở những nơi mà người lãnh đạo không ủng hộ tiến trình tự chủ; Một bộ phận giáo viên không hài lòng về tình trạng lương bổng và cơ hội thăng tiến; Một bộ phận sinh viên không hài lòng; Thiếu sự giám sát có hiệu quả và điều phối nguồn quỹ tự có của các cơ sở giáo dục đại học; Chỉ có giáo viên tự đánh giá và chịu trách nhiệm giải trình về công việc của mình, những người quản lý thì không làm động tác này; Thiếu hụt về nguồn lực tài chính cho các mục tiêu đặc biệt và các dịch vụ cơ bản của hệ thống giáo dục đại học; Sự không hài lòng của sinh viên, của các khoa về hệ thống đánh giá chất lượng giáo dục, vấn đề chi tiêu nội bộ; Việc thực hiện cải cách chính sách học phí, lộ trình tăng học phí của các trường đại học vẫn còn nhiều hạn chế về việc phân loại nhóm ngành, mức học phí vẫn còn thấp, chưa phù hợp với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành và các loại hình đào tạo bậc đại học; Việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học tại nước ta trong thời gian qua có thể nói vẫn chưa được thực hiện một cách triệt để và đầy đủ. Hiện nay các trường đều phải chịu sự phân phối về chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo nên cho dù nguồn lực có thể tiếp nhận nhiều hơn nhưng các trường không thể tuyển vượt quá chỉ tiêu đã được ấn định. Đây là một sự lãng phí về nguồn lực.

2.2.2. Đối với giảng viên

Việc chi trả lương cho cán bộ, giáo viên các trường vẫn phải tính theo hệ số lương cơ bản do nhà nước quy định, trừ đại học quốc gia là tự quyết định. Vì vậy, đã gây khó khăn cho các trường trong việc nâng cao thu nhập cho người lao động và thu hút các giảng viên cũng như các nhà khoa học giỏi về làm việc cho nhà trường.  Với thang lương hiện tại, mức lương cơ bản của giảng viên đại học không đảm bảo cho họ một mức sống trung lưu trong xã hội (mức sống trung lưu cao cho giảng viên nghiên cứu luôn là điều kiện cần cho một hệ thống giáo dục tốt, để nghiên cứu tốt thì ứng viên tuyệt đối cần thời gian tư duy tự do, không bị ràng buộc bởi "cơm, áo, gạo, tiền"). Vì vậy, cần tăng tính hấp dẫn (cơ chế đãi ngộ, lương bổng…) để các giảng viên hăng say hơn, tránh tình trạng trì trệ trong nghiên cứu.

Đội ngũ giảng viên của các trường hầu hết còn quá trẻ, nhiều giảng viên không chịu khó cập nhật thông tin, hàng năm nhiều cán bộ giảng viên không có đề tài nghiên cứu, chưa có bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế... Phương pháp giảng dạy còn thụ động, nhiều giảng viên vẫn còn dùng phương pháp cũ để dạy phương pháp mới, kiến thức mới.

2.2.3. Đối với sinh viên

Điều mà nhiều sinh viên lo lắng là, liệu chất lượng đào tạo có theo kịp lộ trình tăng học phí? Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho rằng:  “Tiền học phí nâng lên theo giá thì cũng phải nâng cao chất lượng. Như thế mới có tác dụng thu hút người học. Đào tạo người học ra phải gắn với việc làm, và người sử dụng lao động phải chấp nhận được”. Được giao quyền tự chủ đồng nghĩa với việc các trường phải tự nâng cao trách nhiệm của mình trong mọi lĩnh vực và phải thật sự khéo léo với bài toán thu-chi. Có như vậy, sinh viên mới an tâm thụ hưởng một môi trường giáo dục hiện đại, bền vững.

Khi quy mô sinh viên tăng nhanh hơn so với sự gia tăng giảng viên, đồng thời để tiết kiệm chi phí một số trường thực hiện việc ghép lớp làm tăng sỹ số sinh viên, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo.

Đối với các trường thuộc khu vực miền Trung, có nhiều sinh viên thuộc diện chính sách đến học, chiếm từ 20 - 30% tổng số sinh viên, được Nhà nước miễn, giảm học phí, nhưng Nhà nước lại không cấp bù kinh phí này cho trường, thiếu hụt chi phí sẽ dẫn tới sự thiếu các nguồn đầu tư cho các dịch vụ giáo dục, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của sinh viên.

3. Giải pháp nâng cao năng lực tự chủ đại học

Để tăng quyền tự chủ ở các trường đại học, nâng cao năng lực đào tạo trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho việc tự chủ. Để thực hiện tự chủ, cần xây dựng bộ máy, các chuyên gia, chuyên viên thực hiện các hoạt động tham mưu cho Ban Giám hiệu về nội dung, biện pháp thực hiện, cung cấp các thông tin, các phương án lựa chọn để người lãnh đạo có thể ban hành các quyết định kịp thời, cần thiết.

Thứ hai, xây dựng cơ chế kiểm soát các hoạt động độc lập, tự chủ, thực hiện trách nhiệm của các đối tượng. Nhà trường cần đặt ra những tiêu chuẩn, tiêu chí chặt chẽ để đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, thực hiện sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đối tượng trên các lĩnh vực như tài chính, cơ sở vật chất, thực hiện nguyên tắc và chế độ trong quản lý, trong công việc, trong đào tạo… đồng thời, có cơ chế để xác định các tiêu chí đó.

Thứ ba, tiến hành đổi mới chương trình đào tạo theo hướng: Nghiên cứu - phát triển, nghề nghiệp và ứng dụng, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, nâng cao kỹ năng thực hành; Đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường liên thông trong đào tạo giữa các ngành và các trường.

Thứ tư, các trường cần thực hiện phân cấp cho các đơn vị trong trường; mở rộng nguồn thu và khoán chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường.

Thứ năm, tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên trẻ, có tâm huyết nghề nghiệp, cán bộ quản lý giáo dục đại học  có phẩm chất đạo đức và chuyên môn cao, có phong cách quản lý và giảng dạy tiên tiến, hiện đại.

Thứ sáu, bồi dưỡng năng lực, tầm nhìn cho người lãnh đạo, người ra quyết định, người thực thi nhiệm vụ để họ có khả năng đánh giá hậu quả, lường trước được những kết quả khi thực hiện các phương án, giải pháp khác nhau. Đây là việc cần đầu tư thời gian, công sức, đúc rút kinh nghiệm của người lãnh đạo, người quản lý.

Tóm lại, xã hội hóa giáo dục phải nhằm đạt được những mục tiêu thiết yếu của giáo dục và nhà nước, không thể lợi dụng xã hội hóa để biến giáo dục, thành một ngành kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các trường đại học. Trường phải chịu trách nhiệm trong việc đáp ứng các tiêu chí chất lượng đào tạo theo quy định và công khai minh bạch, khẳng định được vị thế, thương hiệu.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn:
1. Nguyễn Kiều Oanh: Đường lối chiến lược, chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam trước yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, Chuyên đề Bồi dưỡng Ngạch giảng viên chính, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017.

2. Hoàng Thị Cẩm Thương: Giải pháp tăng cường tự chủ đại học ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 1, số tháng 3/2017.

3. Nguyễn Minh Thuyết: Tự chủ đại học – Thực trạng và giải pháp, Đối thoại Giáo dục Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề Cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam, ngày 31/07 và 01/08/2014 tại TP Hồ Chí Minh.

4. Hoàng Thị Xuân Hoa: Tự chủ đại học – Xu thế của phát triển,  VNU Media.

5. Phan Thị Bích Nguyệt: Tự chủ đại học và các vấn đề nhức nhối cần lời giải, Hội thảo “Tự chủ Đại học – Cơ hội và thách thức” do Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam tổ chức ngày 30/9/2016./.



Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?