Triết học phát triển, một chuyên ngành cần xây dựng nghiên cứu sâu những vấn đề phát triển đương đại ở nước ta hiện nay
TS. Hồ Bá Thâm
Trưởng ban triết học, Viện nghiên cứu xã hội tp. HCM
Khoa học
phát triển ngày nay không thể không bao hàm triết học phát triển, hay nói đúng
hơn là dựa vào triết học phát triển. Với ý nghĩa đó trong bài này chung tôi bàn
về sự cần thiết xây dựng môn triết học phát triển ở Việt Nam như một chuyên
ngành để làm rõ chiều sâu của quá trình phát triển ở nước ta ngày nay.
Lịch sử
phát triển của khoa học, chủ yếu là lịch sử của sự phân hóa các chuyên ngành
khoa học thường là từ một khoa học cơ bản ban đầu (tất nhiên, đồng thời có cả tổng
hợp, hợp ngành). Một khoa học mà không có khả năng phân hóa, không có hình
thành các chuyên ngành mới thì khoa học đó không có sức sống và dễ bị ngưng trệ.
Bởi vì, khoa học nào thì cũng là một quá trình nhận thức và phát triển nhận thức
nơi đối tượng của nó. Mà càng nhận thức sâu, đa diện thì gặp những mặt mới, tầng
nấc mới, chiều sâu mới, từ đó có thể nằm ngoài giới hạn của khoa học đang có, từ
đó có sự tách ra chuyên ngành mới. Điều đó cũng phù hợp với sự tiến hóa và tồn
tại của các đối tượng tự nhiên và xã hội.
Ngày nay,
các khoa học cơ bản và nhiều ngành khoa học đã phân hóa từ một chuyên ngành rộng
sang chuyên ngành hẹp. Có những ngành mang tính lĩnh vực, đồng đại, có những
ngành mang tính chung hơn, mang tính lịch đại, tính phát triển. Khoa học kinh tế,
ngoài kinh tế học chính trị, hoặc các chuyên ngành kinh tế kế hoạch, kinh tế quản
trị, kinh tế công nghiệp…, thì còn xuất hiện kinh tế học phát triển (mà trước
đây ta không nghĩ tới). Ngành xã hội học cũng không chỉ có xã hội học đại cương
và các chuyên ngành xã hội chuyên biệt như xã hội học đô thị, xã hội học gia
đình, xã hội học chính trị mà còn có xã hội học phát triển (dù môn ngành nào
trong đó cũng có nghiên cứu khía cạnh phát triển). Các môn, ngành khoa học khác
ngày nay cũng có tình trạng tương tự. Thực tế hiện nay, có nhiều ngành khoa học
trong đó hình thành chuyên ngành khoa học phát triển thuộc hệ ngành của mình.
Trong khi
đó, triết học thì ngoài những môn chuyên ngành cơ bản (chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, tức là triết học xã hội) và triết học truyền
thống trong các ngành khoa học cụ thể (triết học tự nhiên, triết học đạo đức,
triết học pháp quyền, triết học trong toán học, triết học vật lý), thì còn có
các môn, ngành như: triết học văn hóa, triết học kinh tế, hay gần đây có cả triết
học trong tin học, triết học sinh thái…. Theo thông tin mới đây, trên thế giới
hiện nay có khoảng 160 chuyên ngành triết học (năm 1966 có 149 chuyên ngành hẹp;
năm 1998 có 173 chuyên ngành) chứ không phải chỉ có 10 môn học chuyên ngành như
ở nước ta, làm cho triết học "không theo kịp biến đổi của cuộc sống".
Rõ ràng, cần
nhấn mạnh rằng, "nhu cầu hình thành những chuyên ngành hẹp mới của triết học
trong hệ thống giáo dục và đào tạo đang đặt ra mà nếu không thực hiện được nó,
hệ thống giáo dục và đào tạo không chỉ đáp ứng được nhiệm vụ của mình mà còn chứng
tỏ không quá lạc hậu khi đặt triết học vào trào lưu chung của thế giới" .
Thế nhưng lại chưa hề nói về triết học phát triển với tư cách chuyên ngành hẹp
cần nghiên cứu xây dựng. Phải chăng điều này là không cần thiết? Theo chúng
tôi, không chỉ là "triết lý phát triển" (như một công trình đề tài
nghiên cứu gần đây) mà phải là triết học phát triển mới bao hết tầm sâu rộng và
tính hệ thống của nó.
Chúng ta cần
hội nhập với triết học thế giới như thế nào?
Đại hội triết
học Thế giới lần thứ XXI mới đây, năm 2003, với 50 tiểu ban bàn về 50 vấn đề và
chuyên ngành triết học (mà chủ đề Đại hội là Triết học đối mặt với những vấn đề
thế giới) .
Nhưng trong
đó không thấy nêu vấn đề Triết học phát triển, mặc dù gần đây trên thế giới đã
xuất hiện Phát triển học, các khoa học phát triển.
Triết học
biện chứng (chủ nghĩa duy vật biện chứng) là học thuyết về các mối liên hệ cơ bản,
phổ biến và mọi sự vận động, phát triển của tất cả vạn vật và con người, vật chất
và tinh thần, tức là triết học phát triển cơ bản, phổ quát nhất mà ta thường gọi
là phép biện chứng duy vật. Còn triết học phát triển cụ thể đang nói ở đây là
theo nghĩa hẹp, chuyên ngành hẹp, xem xét những khía cạnh cụ thể hơn của sự
phát triển xã hội đương đại mà phép biện chứng chưa xem xét cụ thể về nó, hoặc
ngoài phạm vi của nó. Tuy triết học phát triển có tiền đề từ phép biện chứng cơ
bản ấy, và có tính xuyên suốt sự phát triển của cái vật chất và tinh thần, và
trên cái nền chủ nghĩa duy vật lịch sử và nhân văn, nhưng chủ yếu xem xét ở góc
nhìn phát triển xã hội cụ thể, đương đại Việt Nam.
Theo chúng
tôi, có thể có và thực tế đang hình thành triết học phát triển từ những nghiên
cứu cụ thể về sự phát triển xã hội đương đại, chỉ có điều là ta không chú ý hoặc
ý thức học thuật không rõ mà thôi. Chẳng hạn, khi có các chuyên đề
nghiên cứu về nhu cầu, lợi ích với tư cách là động lực phát triển xã hội, động
lực phát triển của con người; động lực và nhịp độ phát triển kinh tế xã hội; tiềm
năng và các chỉ số phát triển của con người; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế,
môi trường và tiến bộ xã hội; sự phát triển bền vững, v.v. Đây là những nội
dung liên quan tới triết học phát triển. Điều đó không phải là suy luận lôgic
hình thức mà vấn đề là ở chỗ, nó có thực thể của nó, nội dung bản thể đặc thù của
nó. Do vậy, triết học phát triển ở đây ngang hàng, cùng bậc với triết học đạo đức,
triết học sinh thái, triết học vật lý… nhưng lại có tính đặc biệt của lý thuyết
phát triển.
Như chúng ta biết, là từ những năm giữa thế kỷ XX đến nay
nhiều lý thuyết phát triển kinh tế xã hội ra đời.
Vấn đề trong triết học phát triển, tuy có tính đến sự phát
triển phổ quát và trong chiều sâu của thế giới tự nhiên, nhưng mang tính vi mô,
khu biệt. Do vậy, khi phân tích, chúng tôi sẽ bàn nhiều về sự phát triển trong
các lĩnh vực xã hội và con người là chính. Hơn nữa, không phải là nguyên lý
phát triển giữa các hình thái kinh tế xã hội (nguyên lý tổng quát), dù có liên
quan, mà chủ yếu là sự phát triển trong một hình thái, sự hình thành hình thái
kinh tế xã hội mới từ hình thái kinh tế xã hội cũ như thế nào. Nguyên 1ý phát
triển như thế xuyên qua như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội và con người. Nguyên lý đó thuộc về triết học phát triển.
Chúng tôi, trong một số bài viết đã nêu lên ý tưởng về triết
học phát triển và tinh thần đó cũng đã công bố trong bài "Một số nét nổi bật
của tư duy triết học Việt Nam hiện đại" hay trong công trình "Tư duy
lý luận và tổng kết thực tiễn". Trên quan niệm đó, chúng tôi cũng đã
nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của triết học phát triển như động lực phát
triển, nhịp điệu phát triển, tiềm năng phát triển, tiến trình phát triển,
phương thức phát triển, định hướng phát triển xã hội, sự phát triển người… (xem
thêm 3 cuốn sách của chúng tôi là Động lực và tạo động lực phát triển xã hội
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2004; Thế giới ngày nay và phương thức phát triển tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; hoặc Đổi mới và phát triển hệ thống chính trị
hiện nay, Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2004). Từ đó, chúng tôi dần dần ý thức
hình thành một chuyên ngành triết học phát triển, chuyên môn hóa như thế, thì
càng ngày càng rõ hơn và chính xác hơn, nhất là việc xác định đối tượng, phạm
vi, nội dung của nó. (Mới đây chúng tôi đã xuất bản cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh
và triết học phát triển Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2008, đã trình bày toàn
diện hơn vấn đề này.)
Phải chăng từ các kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
có liên quan tới vấn đề phát triển mà nó vượt ra khỏi các môn học truyền thống,
chúng ta thử mạnh dạn, hệ thống lại theo một lô-gích mới. Đó cũng là một cách
thức hình thành các khoa học giáp ranh, chuyên sâu, hay ít ra chưa được như thế
thì cũng là tạo nên một hệ thống vấn đề cần quan tâm, khác với việc để nó tản mạn,
không biết đâu mà lần. Hãy lấy Khổng Tử mà xét, ta cũng thấy chỉ khiêm tốn hệ
thống hóa lại tri thức quá khứ, phân tích nó, làm sâu sắc thêm, "thuật nhi
bất tác", thế mà có hệ thống tư tưởng Khổng tử. Trong lịch sử tiến hóa của
khoa học và triết học có rất nhiều ví dụ như vậy ở các cấp độ khác nhau. Biết hệ
thống hóa, có chủ đích, nhìn ra một hướng mới là khởi đầu của sự phát triển
khoa học. Một số vấn đề phụ, không mấy quan tâm ở khoa học khác, ở những vấn đề
khác có khi là vấn đề chính, mới ở khoa học này.
Khái niệm phát triển cũng có nhiều tầng, nhiều cấp độ tuỳ
theo từng khoa học mà xem xét tìm ra lát cắt riêng của nó (các khoa học mà ta
thấy như kinh tế học phát triển, xã hội học phát triển tập trung nghiên cứu sự
phát triển kinh tế xã hội chủ yếu các nước đang phát triển là ví dụ như vậy).
Khái niệm phát triển với tư cách là một khái niệm khoa học mới
được nêu ra giữa thế kỷ XX, tuy phạm trù phát triển đã có trong triết học sớm
hơn nhất là trong triết học Hêghen và triết học Mác. Còn khái niệm phát triển bền
vững lại còn mới hơn nữa, tức mới xuất hiện hơn ba chục năm lại đây thôi. Vấn đề
phát triển trong xã hội thì đến xã hội tư bản tương đối phát triển mới được nêu
ra. Trong Nho giáo và Phật giáo, hầu không có khái niệm phát triển. Nho giáo
chú ý khái niệm nhân nghĩa, quan hệ ứng xử và bình trị thiên hạ. Phật giáo chú
ý khái niệm nhân quả, từ bi và giải thoát. Còn Đạo Lão chú ý khái niệm đạo,
phân hóa-biến đổi… Nhưng các khoa học ngày nay rất quan tâm tới khái niệm tiến
hóa, phát triển và hệ vấn đề phát triển. Xã hội phương Đông trước đây phát triển
rất chậm, thậm chí không phát triển, còn các xã hội phương Tây thì phát triển rất
nhanh, hoặc xã hội tư bản lại phát triển nhanh hơn xã hội phong kiến rất nhiều.
Hoặc có phát triển lại cũng có phản phát triển, có những mô hình phát triển có
tương lai và có mô hình phát triển không có tương lai… Phát triển hay tụt hậu,
có nước kém phát triển đuổi kịp các nước phát triển, còn có nước nghe ra rất
khó khăn, chưa thấy hy vọng! Tại sao như vậy?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử- triết học xã hội không có điều kiện
đi sâu trả lời những câu hỏi như vậy mà nó chỉ cho chúng ta một số phương pháp
luận chung mà thôi. Trả lời câu hỏi này, trước hết là thuộc về triết học phát
triển, nhưng khi nó chưa hình thành thì nội dung ấy thuộc về duy vật lịch sử.
Nhưng chỉ ở tầm triết học phát triển mới trả lời được đầy đủ và toàn diện hơn.
Và trả lời vấn đề đó, nếu đúng, rất có ý nghĩa đôi với chúng ta hôm nay cũng
như ngày mai.
Tinh thần của phạm trù phát triển trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng là sự chuyển hoá từ chất cũ lên chất mới lên trình độ cao hơn, tinh vi
hơn, phong phú hơn xuất phát từ những mâu thuẫn nội tại của bản thân vạn vật.
Phát triển trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu, là sự chuyển hóa từ hình
thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Còn
trong triết học phát triển thì, phát triển là sự triển khai những tiềm năng của
bản thân sự vật, hiện tượng, những sự thay đổi kết cấu như một tiến trình, vượt
qua trở lực, đồng nhất với chính nó, nhưng khác nó, ngày càng cao hơn, tinh tế
hơn về chất với tính hướng đích trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Vấn đề phát triển đang là một thách thức của xã hội ngày
nay, nhất là một xã hội đang kém phát triển trong một thế giới mà sự tăng trưởng
kinh tế và phát triển đến chóng mặt thì việc cần làm sáng tỏ về mặt triết học
là rất quan trọng và cấp bách. Dù rằng, liên quan tới phát triển xã hội, có nhiều
khoa học nghiên cứu nhưng khi tiếp cận theo chiều ngang, chiều cấu trúc, đồng đại
thì vấn đề phát triển chưa phải là trọng tâm của nó. Còn khi chúng ta xem xét
theo lịch đại- thời gian, "chiều thẳng đứng" thì mới rõ hơn khái niệm
tiến hóa, phát triển, tiến bộ. Hơn nữa mỗi lĩnh vực khoa học có thể bàn về sự
phát triển ở lĩnh vực đó. Ngay lĩnh vực con người, trước đây thường nêu là xây
dựng con người hay phát huy nhân tố con người nhưng gần đây đã nêu rõ vấn đề
phát triển người và đến mức cụ thể là các chỉ số phát triển người. Rõ ràng, có
nhiều vấn đề chung sau cấp độ duy vật lịch sử về sự phát triển xã hội và con
người chưa có khoa học nào đi sâu nghiên cứu.
Nhưng chúng có thể được quy tụ về một chuyên ngành triết học,
mà tạm gọi là triết học phát triển (xã hội, nhân văn). Ví dụ, có các vấn đề , nội
dung phát triển, như :
1- Bản chất của phát triển và phát triển là bản chất của xã
hội;
2- Mô hình, phương thức phát triển;
3- Phát triển tuần tự và phát triển quá độ và phát triển rút
ngắn
4- Mục tiêu, động lực, và nhịp độ phát triển;
5- Xu hướng, chu kỳ và những mâu thuẫn cụ thể của sự phát
triển;
6- Tiềm năng xã hội và con người, những vấn đề cần phát triển;
7- Lý tưởng xã hội và hiện thực phát triển;
8- Thịnh và suy, xung đột, khủng hoảng xã hội và sự đổi mới,
cải cách, cải tổ;
9- Những tiền đề, nguyên nhân của sự trì trệ và của sự phát
triển, giá phải trả cho phát triển, phát triển và phản phát triển, sự phát triển
bền vững;
10- Xã hội truyền thống và phát triển (hiện đại hóa?), xã hội
hiện đại và hậu hiện đại (Tạp chí triết học, sồ 2- 2003, tr.18-22);
11- Tiến trình và định hướng phát triển;
12- Thời và thế của sự phát triển; thời cơ, cơ hội và thách
thức, nguy cơ của sự phát triển xã hội;
13-Quan hệ giữa kinh tế, xã hội văn hóa và môi trường trong
phát triển bền vững;
14-Cái khách quan và cái chủ quan trong phát triển;
15-Các khả năng phát triển và dự báo sự phát triển;
16-Phát triển như một giá trị và giá trị của phát triển.
…
Những nội dung này nhìn chung chưa có chuyên ngành triết học
hay khoa học nào bàn kỹ và thuộc chuyên ngành của mình. Dù sự chia cắt, phân
hóa, phân công không mang tính tuyệt đối nhưng cần có sự phân công hay phân biệt
tương đối rõ ràng khi nói về nội dung, đối tượng các môn học, các chuyên ngành
khoa học cụ thể.
Một số nội dung trên đây, theo tôi nghĩ là những nội dung của
triết học phát triển, nhưng không phải đề cập ở cấp độ duy vật lịch sử, tức cấp
độ vĩ mô, tầm lịch sử nhân loại, mà là cấp độ vi mô, tầm từng giai đọan phát
triển, từng mặt của sự phát triển, chẳng hạn, những vấn đề phát triển như thế
trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Bởi vì, chuyên
ngành triết học phát triển là chuyên ngành triết học ứng dụng, triết học ở tầm
cụ thể. Và chính nhờ vậy mà triết học từng bước, thông qua chuyên ngành của
mình gần cuộc sống, có ích cho cuộc sống rõ ràng hơn. triết học không chỉ bàn về
cái chung phổ quát mà phải bàn cái chung trong cái cụ thể, thông qua cái cụ thể,
điều này không dễ nhưng rất cần thiết. Và đó là thuộc đối tượng của các chuyên
ngành triết học phát triển cụ thể.
█
Bàn về sự phát triển từng lĩnh vực cụ thể ở tầm phổ quát,
mang ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận, phân tích cụ thể tình hình cụ
thể, là thuộc về triết học phát triển. Triết học phát triển như thế là phép biện
chứng ở tầm vi mô, cũng tức là vận dụng, mở rộng và phát triển phép biện chứng
trong từng lĩnh vực, nhưng lại quy về một mối.
Làm được điều đó, triết học sẽ soi sáng cho khái niệm phát
triển, cùng nội dung của nó trong các khoa học phát triển cụ thể khác (kinh tế
học phát triển, nhân học phát triển…) trong xã hội đương đại đang phát triển.
Nhưng cũng cần nói rằng, đây không phải mô tả, khảo tả cuộc sống, minh hoạ đường
lối, mà là phân tích ở tầm triết học các vấn đề có tính phạm trù, nguyên lý của
triết học phát triển, qua đó mà soi sáng các khía cạnh mới, làm cơ sở lý luận
và thực tiễn phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển con người. Chẳng
hạn, một trong những vấn đề khá nan giải là quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng, tiến bộ xã hội và bảo toàn môi trường sinh thái; phát triển văn hóa
đồng bộ với tăng trưởng kinh tế. Đó cũng chính là phát triển bền vững, vấn đề
mang tính toàn cầu và thời đại. Từ một vấn đề của khoa học sinh thái học đã dần
dần trở thành một vấn đề của phát triển kinh tế xã hội. Và theo tôi, phát triển
bền vững (lâu bền) hiện nay đã trở thành một phạm trù trung tâm của triết học
phát triển. Bàn về phản phát triển và phát triển bền vững; hoặc phát triển là
loại trừ hay hợp tác; hay thịnh suy, khủng hoảng và đổi mới, vv và vv…, quả là
những chủ đề thú vị của triết học phát triển.
Cũng như vậy ta có thể nói về phạm trù nhu cầu, phạm trù lợi
ích, nhưng không xem xét nó ở góc độ tâm lý mà góc độ động lực phát triển thì
phạm trù nhu cầu, động lực phát triển, phương thức, mô hình, xu thế, nhịp độ
phát triển và nhiều phạm trù khác liên quan tới các vấn đề phát triển như đã
nêu ở trên là thuộc về triết học phát triển. Vấn đề xác định cho rõ các phạm
trù, khái niệm của triết học phát triển và khu biệt nó ở tầm nhận thực luận là
rất có ý nghĩa về mặt nhận thức và rất quan trọng nhưng phải dần dần mới rõ được.
Chuyên ngành triết học phát triển sẽ là sự tổng kết thành quả
các ngành khoa học bàn về sự phát triển ở cấp độ triết học cụ thể. Và từ đó
khái quát, nâng cao lên thành lý thuyết ở cả góc độ nhận thức luận và phương
pháp luận cụ thể của mình.
Vấn đề triết học phát triển mới chỉ là giả thuyết và hiện tại
chưa xuất hiện như một hệ thống, đúng thế, nhưng nếu vậy ta thử nêu ra cùng thảo
luận xem nó có khả năng và có hiện thực không? Phải chăng chúng ta chỉ có thói
quen là để các nước khác họ xây dựng còn chúng ta sẽ ứng dụng thôi. Rằng, chúng
ta không có khả năng xây dựng hoặc phát triển các ngành khoa học (?!). Phải
chăng có chuyện phân công tiên thiên như vậy. Thật là khiêm tốn đến mức tự ti.
Đây cũng không phải là thích nêu lên vấn đề này vấn đề nọ mà
là bản thân khoa học và nhận thức cùng thực tiễn cần như vậy. Phải chăng khoa học
chỉ là bình luận về các các nguyên lý có sẵn hay các quyết sách đã thông qua.
Không khám phá, sáng tạo, không có hoài nghi, không có giả thuyết khoa học,
không tìm những khía cạnh mới, hoặc phân tích, hoặc tổng hợp sao có khoa học và
triết học, mà đạo học nữa, bây giờ cũng phải vậy.
Triết học không chỉ nảy sinh từ thực tiễn phát triển kinh tế
xã hội của đất nước, xét tới cùng mà triết học thường xuất hiện trực tiếp từ
tri thức các khoa học cụ thể. Ngay như việc nêu ra vấn đề phát triển người
nhưng chưa hề có bài viết nào bàn sâu rõ về phạm trù này về mặt triết học.
Do đó, chính việc làm rõ phạm trù phát triển người như là một
phạm trù triết học phát triển sẽ góp phần khắc phục sự lạc hậu của tư duy lý luận
triết học hiện nay. Thực tiễn đòi hỏi đường lối và lý luận phải phát triển và
thực sự Đảng ta đáp ứng được cơ bản nhu cầu đó ở tầm quan điểm. Nhưng khoa học
lý luận, nhất là triết học, dưới tác động của thực tiễn đó đã tự bổ sung phát
triển như thế nào, mà vấn đề đang bàn ở đây là vấn đề phát triển con người? Có
lẽ chúng ta quá khiêm tốn và thận trọng chứ không phải là năng lực tư duy lý luận
của chúng ta quá kém! Không, sự tự ti và thói quen "ăn sẵn" trong tư
duy, hoặc cả việc chuyển từ giáo điều sách vở sang khoa học, hay triết học kiểu
"mì ăn liền" cũng đang làm cho khoa học lý luận luẩn quẩn và trì trệ,
bất cập.
Đồng chí Hà Xuân Trường, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng
biên tập tạp chí Cộng sản, trong một cuộc hội thảo khoa học gần đây nhận xét rất
chí lý và rất đúng rằng: "Cái yếu kém của công tác tư tưởng, lý luận không
chỉ ở phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện mà chính là sự khái quát, đi sâu
vào nội dung, cấu trúc của từng lĩnh vực, từng ngành hoạt động, hệ thống hóa
thành những phạm trù có sức soi sáng cho việc thực thi nhiệm vụ đề ra. Tư tưởng
lý luận mà ta bàn đến thường dừng ở các quan điểm chỉ đạo, ít đi sâu vào nội
dung khoa học của từng lĩnh vực" .
Xin được nói thêm, là chúng ta ít đi sâu vào học thuật nên
khoa học chỉ bàng bạc bên ngoài. Sợ và lãng tránh học thuật, không chú ý nghiên
cứu ở tầm cơ bản, không mạnh dạn xây dựng lý thuyết và chuyên ngành khoa học cần
thiết là một sự lạc hậu về lý luận và cũng là một nguyên nhân làm cho tư tưởng,
lý luận bất cập. Ví dụ, có người, khi nói kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hay nghe "thuyết ba đại diện"- một vấn đề thuộc về Đảng học
phát triển, hay vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân tì lúng túng không biết thế
nào là đúng… Không có quan niệm và phương pháp luận phát triển, cách tiếp cận
phát triển cụ thể thì không tìm được lối thoát mang tính lưỡng nan như nghịch
lý. Khoa học phải thiết thực nhưng không thể là "mỳ ăn liền", bỏ qua
tầm lý luận cơ bản, mà phải hiểu rằng, phải qua nhiều tầng nấc tri thức, nhiều
khâu mới nó mới đến được thực tiễn. Không phải nghiên cứu triết học thì nghiên
cứu ở "trên trời", cao xa mà cũng chính là nghiên cứu cuộc sống nhưng
ở tầng nấc sâu hơn, phổ quát hơn, xa đấy mà gần, gần mà xa.
Tất nhiên, không phải là muốn hay không muốn mà trước hết là
do thực tiễn cuộc sống ở những bước ngoặt lớn đòi hỏi phải giải quyết một cách
mới, mà thực tiễn lịch sử thế kỷ XX và XXI này chúng ta có những tình huống đó.
Đồng thời khả năng sáng tạo của người Việt Nam là không nhỏ. Những bộ óc như Lê
Quý Đôn, Nguyễn Trãi… trong lịch sử và những bộ óc như Hồ Chí Minh và những
lãnh tụ hàng đầu của cach mạng Việt Nam, cùng với những nhà lý luận có tầm cở
khác đã và đang chứng tỏ chúng ta có thể phát triển tư duy lý luận của mình lên
đỉnh cao, có thể có những sáng tạo lý luận quan trọng, có ý nghĩa cơ bản và sâu
sắc.
Chúng ta thường tự trách là ít có những nhà tư tưởng hay những
nhà triết học nhưng nếu chỉ thích nhà triết học kiểu "mỳ ăn liền" thì
làm sao có nhà triết học hay tư tưởng triết học thực thụ có giá trị lâu bền. Tất
nhiên, có nhiều hướng nhưng nghiêu cứu triết học kiểu Cao Xuân Huy hay Trần Đức
Thảo (hai nhà triết học lỗi lạc của nước ta cuối thế kỷ 20) là một kiểu hướng
nghiên cứu cơ bản, nên có tầm xa, sâu.
Trở lại với vấn đề triết học phát triển, chúng ta thấy rằng
từ khi tiến hành đổi mới tư duy đến nay vấn đề phát triển đang đặt ra cho khoa
học và triết học nhiều vấn đề cần phát hiện, lý giải và khi cần phải xây dựng
phạm trù, nguyên lý mới cho sự nhận thức đó. Có khá nhiều công trình và vấn đề
của triết học phát triển cụ thể nhưng chúng ta không, hoặt ít khái quát, quy nó
về những chuyên ngành khoa học, hoặc mở ra những chuyên ngành mới, khi chuyên
ngành cũ quá chật hẹp, không còn chứa nổi nội dung mới. Chúng ta thường thỏa
mãn với phổ triết học chung nhất: duy vật biện chứng hay duy vật lịch sử, không
giám vượt "ra ngoài", tìm thêm phổ mới, hệ mới, giống loài mới tuy
không phải đối nghịch mà phong phú hóa nó, trên cái nền, cái hướng chung. Sinh
con đẻ cái, cháu chắt đầy nhà nhưng không lập cho nó gia đình riêng, sự nghiệp
riêng, biên giới riêng. Khoa học, triết học cũng có vấn đề như vậy. Tư duy triết
học và khoa học phương Tây không như vậy mà ngược lại. Dù là đạo học hay khoa học
thì sự phân hóa như vậy trong nhận thức là chuyện bình thường, phù hợp với quy
luật phát triển của lịch sử. Phân hóa (cấu trúc, chức năng, tiến trình, xu hướng)
theo chiều tiến bộ, có lợi cho sự sống là bản chất của sự phát triển không chỉ
trong mọi sự sống mà cả trong khoa học, đạo học và triết học.
Chúng tôi nghĩ trong nhiều chuyên ngành triết học thì chuyên
ngành triết học phát triển có tầm quan trọng hàng đầu, tuy nó ra đời muộn hơn
nhưng, lại có ý nghĩ xuyên suốt nhiều chuyên ngành khác, những chuyên ngành
mang tính đồng đại.
Toàn bộ trí lực, tâm huyết của Đảng ta, dân tộc ta, các
chuyên ngành khoa học ở nước ta bây giờ là nghiên cứu các khả năng phát triển,
tìm ra động lực, mô hình, cách thức, mục tiêu, sức mạnh… để nắm bắt cơ hội, vượt
qua thử thách nhằm phát triển đất nước lên hiện đại và chủ nghĩa xã hội bằng
con đường phát triển rút ngắn, phát triển nhanh và bền vững thì vai trò của triết
học phát triển rất quan trọng. Nó cần ra đời để góp phần đắc lực cho sự nghiên
cứu và đóng góp đó.
Đào sâu vào những vấn đề đó, trả lới sâu sắc ở tầm lý luận
những vấn đề đó, chúng ta sẽ có triết học phát triển và cần tới triết học phát
triển. Phải chăng đây là một hướng nghiên cứu rất cơ bản và thiết thực, rất có
triển vọng của triết học Việt Nam ngày nay mà trên một số nội dung cụ thể chúng
ta đã nghiên cứu còn bây giờ cần cái nhìn hệ thống và phát triển tiếp? Tại sao
không? Chuyên ngành này bao giờ thành hiện thực, nều đúng, thì điều đó phụ thuộc
vào bàn tay khối óc của các nhà triết học Việt Nam hôm nay.
Nguồn Online:
http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/triet_hoc_phat_trien_chuyen_nganh_can_xay_dung-e.html
Đánh giá bài viết?