Siêu Hình học: Tồn tại hay không tồn tại
Đỗ Minh Hợp
Tạp chí Triết học
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học là tìm ra các nguyên tắc mới để hình thành một lập trường
sáng tạo đối với truyền thống triết học và tiếp thu những thành tựu của tư tưởng
triết học thế giới. Vấn đề siêu hình học, quan niệm vế siêu hình học luôn là một
vấn đề trọng tâm và nan giải nhất của triết học, vì nó có liên quan mật thiết đến
dự lý giải về triết học, về động thái của đối tượng triết học và về sứ mệnh của
triết học trong văn hoá. Bài viết này của chúng tôi nhằm góp phần làm sàng tỏ vấn
đề ấy.
Trước hết, chúng tôi cần trở lại với lịch sử hình thành khái
niệm “siêu hình học”.
1. “Siêu hình học” là “triết học thứ nhất” của Arixtôt.
Bản thân Arixtôt chưa sử dụng thuật ngữ “siêu hình học”.
Song, nếu căn cứ vào những tác phẩm của ông tập hợp lại dười tên gọi “siêu hình
học”, thì có thể khẳng định rằng, trong quan niệm của Arixtôt, siêu hình học là
học thuyết về những nguyên tắc và các bản nguyên tối cao, siêu kinh nghiệm của
tồn tại, của nhận thức, của văn hoá và vủa con người.
Như đã rõ, Anđrôníc Rôđôsky (thế kỷ I trước CN.) đã đưa ra
thuật ngữ “siêu hình học” khi hệ thống hoá các tác phẩm của Arixtôt. Ông xếp
vào “siêu hình học” các tác phẩm mà Arixtôt đề cập tới “tồn tại như là cái thực
tồn”, tới”các hình thức thư nhật của cái thực tồn”. Toàn bộ di sản lý luận của
Arixtôt được phân ra thành ba bộ phận là: 1) Vật lý học - nghiên cứu giới tự
nhiên, 2) triết học - nghiên cứu cái thực tồn và sự tồn tại của cái thực tồn,
3)đạo đức học - nghiên cứu cái do con người tạo ra, cái có quan hệ cới lối sống,
lối ứng xử của con người (etos).
Như vậy, “siêu hình học” (triết học thứ nhất” của Arixtôt
nghiên cứu cái thực tồn và sự tồn tại của cái thực tồn, các bản nguyên và những
nguyên tắc của mọi cái thực tồn; các bản nguyên này cũng chính là mục đính nhận
thức và nguồn gốc khoái cảm của con người. Về thực chất, siêu hình học cổ đại
cùng với việc tìm tòi những nguyên tắc hay các bản nguyên siêu hình học nói
chung.
2. Siêu
hình học trung cổ.
Trong triết
học trung cổ, siêu hình học thể hiện là hình thức tối cao của nhận thức lý tính
về tồn tại, về sự phục tùng tri thức siêu lý tính được đem lại trong mặc khải.
Tômát Đacnh đã luận chứng cho sự đồng nhất giữa “triết học thứ nhất”, siêu học
thứ nhất là sự nhận thức nguyên nhân tối cao (Chúa, Đấng Sáng thế với tư cách
nguyên nhân thứ nhất của vạn vật), còn siêu hình học thì khảo cứu cái thực tồn
và những gì có quan hệ với nó. Triết học Arixtôt được Tômát Đacanh lĩnh hội
theo chiều hưỡng dẫn tới sự xuất hiện hệ tín điều của cả niềm tin lẫn của triết
học thứ nhất. Triết học này (siêu hình học Arixtôt), theo ông, khi vạch ra mối
liên hệ đặc thù giữa “triết học thứ nhất” với thần học đã định hướng thế giới
quan trung cổ với ý niệm về Chúa như một Đấng Sáng thế, với sự nhận thức về
Chúa như là nguyên nhân tối cao và với những luận chứng cho sự tồn tại của
Chúa. Triết học thứ nhất của Arixtôt khi đặt ra vấn đề bản chất của cái thực tồn
và cái thực tồn tổng thể với tư cách là cái tối cao và cái tối hậu (Thượng đế)
đã đánh đống niềm tin Thiên Chúa giáo với chính nội dung trong học thuyết triết
học của ông. Từ đó, người ta đã biến cái là vấn đề ở Arixtôt thành chân lý hiển
nhiên và qua đó, đồng nhất “triết học thứ nhất” của ông với siêu hình học và thần
học. Tuy nhiên, nói một cách chính xác hơn, thần học trung cổ không gắn liền với
vấn đề xác định tồn tại nói chung như của Arixtôt, mà toàn bộ siêu hình học phải
phục tùng thần học một cách tuyệt đối.
3. Siêu
hình học cận đại.
Tính đặc
thù của siêu hình học cận đại được thể hiện ở chỗ, toàn bộ hệ vấn đề triết học
truyền thống được xem xét từ giác ngộ của khoa học mới, còn khoa học tự nhiên,
nhất là toán học, thì trở thành cái biểu thị cho tính khoa học của triết học. Từ
đó suy ra rằng, nếu siêu hình học đặt ra các vấn đề về các bản nguyên đầu tiên,
về cái tối cao tối hậu thì loại tri thức này phải phù hợp với đối tượng được
nghiên cứu, tức là bản thân tri thức phải trở nên tuyệt đối xác thực. Triết học
cận đại đặt ra nhiệm vụ cải tiến toàn bộ hệ vấn đề truyền thống theo tinh thần
của tính chặt chẽ tương ứng và qua đó, nâng siêu hình học nên trình độ khoa học
tuyệt đối. Vấn đề tính xác thực tuyệt đối của tri thức đã trở thành vấn đề cơ bản
đối với triết học cận đại. Khi hướng tới lý tưởng về tính chặt chẽ, siêu hình học
cận đại đã biến thành siêu hình học của nhận thức. (Sau này, Phíchtơ coi khoa học
luận là sự luận chứng cho siêu hình học).
Song, cũng
có các nhà tư tưởng, cụ thể là Paxcan, đã đặt ra vấn đề về giới hạn của tính khoa
học, về “luận chứng của trái tim”. Điều này đã tạo ra một viễn cảnh rộng lớn
hơn cho siêu hình học truyền thống - đem lại cho tư duy siêu hình khả năng nắm
bắt cả tồn tại lẫn con người có hiểu biết và đặt ra vấn đề về bản thân sự hiện
diện của con người trong thế giới - vấn đề về tồn tại người.
Ở thế kỷ
XVIII, sự hình thành và tự xác định của các khoa học cụ thể đã khiến cho siêu
hình học lâm vào khủng hoảng, biến thành công cụ hệ thống hoá giáo điều với nhiệm
vụ chủ yếu là xây dựng các hệ thống tri thức triết học phổ quát.
4. Siêu
hình học cổ điển Đức.
Không đồng
tính với siêu hình học giáo điều - thứ siêu hình học lãng quên thực chất của tồn
tại người, I. Cantơ đã cố gắng nắm bắt chính xác các vấn đề nội tại của siêu
hình học trước đó, để trên cơ sở ấy, phân tích nó một cách có phê phán và luận
chứng cho một phương thức triết lý mới. Đóng góp của Cantơ là việc thừa
nhận khả năng và tính tất yếu nội tại của siêu hình học, khẳng định bản chất của
nó xuất phát từ việc nghiên cứu vấn đề tính hữu hạn của tồn tại người mà theo
đó, nhận thức về tồn tại và tính hữu hạn của “tồn tại hiện có” (Dasein) hay của
“sự hiện sinh đức thực” phải hướng vào thời gian như là tính quy định cơ bản của
sự hiện hữu nơi con người. Dĩ nhiên, việc luận chứng cho sự hiện hữu nơi con
người đòi hỏi phải lý giải bổn phận, lương tâm và cái chết của con người về mặt
hiện sinh. Với cách lập luận như vậy, Cantơ coi siêu hình học là sự kết thúc
văn hoá tư duy của con người. Đối cới ông, đối tượng của siêu hình học (triết học),
của toán học và khoa học tự nhiên (trước đó là triết học tự nhiên) là hoàn toàn
khác nhau. Đây là một luận điểm quan trọng, vì nó tạo ra tiền đề cho siêu hình
học văn hoá ở thế kỷ XX.
Đồng thời, các tư tưởng khác của Cantơ, cụ thể là quan điểm
của ông về tính tích cực của chủ thể nhận thức, đã đem lại xung lượng mới về triết
học cổ điển đức sau đó. Tiếp thu quan điểm đó của Cantơ, khi cố gắng xây dựng
siêu hình học thực chứng, Phíchtơ và Senling đã gắn liền tư duy với thượng đế,
lý tính với giới tự nhiên, siêu hình học với khoa học, đã lý giải biện chứng của
lý tính không phải như là một sự bế tắc lý luận, mà như là động lực phát triển
của nhận thức. Theo đó, phép biện chứng đã được coi như là một thành tố cần thiết
của tư duy chân thực.
Đến Hêgen, phép biện chứng đã trở thành phương pháp nhận thức
mâu thuẫn và phát triển khái niệm. Hêgen được coi là người đầu tiên đối lập
siêu hình học và phép biện chứng như hai phương pháp khác nhau. Ông cho rằng
nguồn gốc của phương pháp siêu hình là ở việc giới hạn hoạt động nhận thức ở
lĩnh vực lý trí; còn phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức mâu thuẫn
và phát triển khái niệm. Mặc dù đối lập phương pháp siêu hình với phương pháp
biện chứng, song Hêgen vẫn coi siêu hình học là “khoa học của các khoa học” và
coi triết học của ông là siêu hình học chân chính.
Nửa sau thế kỷ XIX được đặc trưng bởi thái độ phủ định đối với
siêu hình học truyền thống mà chủ nghĩa thực chứng là biểu hiện rõ nét nhất.
Không có ý định đi sâu vào vấn đề phủ định siêu hình học, nên chúng tôi chỉ đề
cập tới vấn đề này khi trình bầy quan điểm hiện đại về siêu hình học.
5. Siêu hình học hiện đại.
Như đã nói, siêu hình học thường được quan niệm là học thuyết
về các bản chất siêu tình cảm, mà theo đó, thế gới không chỉ quy về những gì do
các giác quan đem lại, tức là thế giới không thể nhận thức được bằng cảm tính,
mà chỉ có thể nhận thức được bằng lý tính, tư duy, trực giác trí tuệ. Cái gì ẩn
náu ở đằng sau cái vẻ bề ngoài của sự vật? - đó là vấn đề cơ bản của siêu hình
học. Siêu hình học hiện đại khẳng định con người có quyền đưa ra các giả thuyết,
cái hư cấu nhằm lý giải được bằng con đường khái quát các dữ liệu kinh nghiệm
và các bản chất siêu hình học, về nguyên tắc, là không thể nắm bắt được bằng trực
giác cảm tính, song chúng lại cho phép giải thích dữ liệu trực giác theo một
cách nhất định. Chẳng hạn, A.Sôpenhaoơ và A.Sôlôviép coi tình yêu là một bản chất
siêu hình quan trọng động lực của vạn vật.
Tiếp thu quan điểm của Hêgen, hàng loạt các nhà triết học đã
loại bỏ quan niệm truyền thống về siêu hình học, đối lập nó như một phương pháp
tư duy với phép biện chứng - phương pháp lấy việc phủ định các quá trình biến đổi
và phát triển trong thế giới làm nguyên tắc. Cách tiếp cận này đóng một vai trò
quan trọng trong việc khác phục tư duy cơ giới, máy móc, phiến diện, trừu tượng.
Song toàn bộ vấn đề là ở chỗ siêu hình học (hiểu theo nghĩa truyền thống) không
trực tiếp đề cập tới bất kỳ vấn đề nào của thế giới hữu hình. Nó cho rằng, thế
giới các bản chất siêu hình là bất động không phải theo nghĩa tuyệt đối, mà chỉ
trong quan hệ với các sự vật biến đổi vĩnh viễn và vô cùng đa dạng của thế giới
được lĩnh hội bằng cảm tính.Không cần phải thuyết phục ai đó rằng “tất cả đều
biến đổi”! Song, việc phát hiện ra một cái tương đối ổn định, bất biến trong thế
giới biến đổi vô hạn, phân chia nó thành vô số bộ phận - đó là một nhiệm vụ
không đơn giản chút nào và siêu hình học phải có sứ mệnh giải quyết vấn đề đó.
Cuộc sống của con người, hoạt động thực tiễn của con người sẽ là cái không thể
hiểu được, nếu trong thế giới không có gì là tuyệt đối, là vô điều kiện, là
đáng tin cậy, nếu trong thế giới mà mọi thứ đều liên tục biến đổi và phân chia
ra thành vô số bộ phận. Nhiệm vụ của siêu hình học là phải trả lời cậu hỏi “Tại
sao thế giới lại diễn ra như vậy”?. Với tư cách là lĩnh vực biểu thị sự khao
khát của con người trong quá trình tìm hiểu thực chất của vấn đề, siêu hình học
không thoả mãn với sự lý giải về mặt chức năng vốn là cái đặc trưng của khoa học
tự nhiên. Theo nó, sự lý giải về mặt chức năng chỉ là sự lý giải nhằm tìm ra sự
phụ thuộc của hiên tượng nghiên cứu vào hiện tượng khác và xác định tính chất của
sự phụ thuộc ấy. Sự lý giải về mặt chức năng chỉ trả lời cho câu hỏi “Thế giới
biến đổi như thế nào”?, Chứ không trả lời được câu hỏi “Tại sao thế giới lại biến
đổi như vậy”?.Sự lý giải thế giới về mặt chức năng có thể cho thấy “lối ứng xử”
của các khách thể, tính toán được các tham số cần tìm theo một công thức toán học
cụ thể. Chẳng hạn, định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn cho thấy hai vật hút
nhau với một lực tỷ lệ thuận với tích khối lượng của chúng và tỷ lệ nghịch với
bình phương khoảng cách giữa chúng, nhưng lại không đặt ra vấn đề tại sao các vật
nói chung lại hút nhau và lực hấp dẫn xuất hiện từ đâu, bản chất của nó là gì,
v.v.. Sự chiếm ưu thế của kiểu lý giải thế giới về mặt chức năng trong khoa học
tự nhiên cho phép khoa học này trở thành tri thức mang tính thao tác và mở ra
triển vọng áp dụng nó trong thực tiễn. Song, trong hàng loạt trường hợp, khoa học
tự nhiên buộc phải giả định các bản chất có tính chất siêu hình. Điều này diễn
ra khi nó có tham vọng xây dựng bức tranh thế giới của riêng mình dựa trên các
dữ liệu khoa học.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên trong thế kỷ XX
đã dẫn đến hy vọng rằng, khoa học có thể tạo ra một bức tranh thế giời mà hoàn
toàn không cần đến siêu hình học. Điều này dẫn đến ảo tưởng rằng, tính khoa học
chặt chẽ và tính hoàn hảo sẽ chiếm ưu thế trong sự lĩnh hội thế giới của con
người, còn yếu tố bất định đặc trưng cho siêu hình học sẽ hoàn toàn bị loại bỏ.
Triết học thực chứng là minh chứng điển hình cho hy vọng về sự thắng lợi hoàn
toàn của khoa học tự nhiên đối với siêu hình học trong việc xây dựng bức tranh
khoa học về thế giới. O.Côngtơ cho rằng, nhân loại đã bước vào một thời đại (thực
chứng) mà ở đó, không có sự thống trị của tri thức khoa học thực chứng. Sau O.Côngtơ,
B.Ratxen cho rằng, các vấn đề quan trọng nhất của siêu hình học, như các vấn đề
về sự tồn tại của Chúa, sự bất tử và lẽ sống của con người, mục đích của lịch sử,
bản chất của thế giới, v.v.., sẽ được giải quyết triệt để bằng cách hoàn thiện
bộ máy lôgíc học hình thức của khoa học(1).
Giải pháp thoả đáng cho vấn đề quan hệ giữa khoa học tự
nhiên và siêu hình học, theo chúng tôi, trước hết được quy định bởi các đặc điểm
của khoa học hậu cổ điển. Khoa học hậu cổ điển cho thấy rằng, khoa học tự nhiên
tự nó không có khả năng đưa ra một bức tranh có kết cấu chắt chẽ và không mâu
thuẫn về thế giới. Tính có chủ thể của tri thức khoa học tự nhiên trong nhiều
trường hợp không cho phép nói về bức tranh thế giới mà ở đó, không có sự phụ
thuộc vào con người. Thế giới mà khoa học tự nhiên phác hoạ với giả định “nếu
không có con người“ - đó chẳng qua chỉ là thế giới ước lệ, mang tính giả thuyết.
Thế giới này luôn biến đổi và cần được xem xét lại một cách triệt để mỗi khi có
một chuyển biến mới trong quá trình phát triển của nhận thức khoa học. Thử nhiệm
hợp nhất mọi thành tựu khoa học tự nhiên luôn bị phá sản như đã từng xẩy ra với
thử nghiệm xây dựng thuyết trường chung của A.Anhxtanh, vì nó luôn cần phải được
xem xét lại trước khi hoàn tất, vì quá trình nhận thức khoa học luôn biến đổi
và khó có thể tiên đoán trước kết quả. Một khi những thử nghiệm như vậy vẫn cứ
được tiến hành thì nhất định phải có sự tham gia của siêu hình học, vì siêu
hình học cho phép sử dụng các bản chất không quan sát được một cách trực tiếp và
không thể kiểm tra được bằng phương pháp khoa học tự nhiên. Trên thực tế, hy vọng
vào bức tranh thế giới được xây dựng chỉ với những dữ liệu khoa học tự nhiên
đòi hỏi phải loại bỏ hoàn toàn siêu hình học. Hy vọng mọi thứ đều hoàn toàn có
thể lý giải được bằng khoa học tự nhiên, về thực chất, đã tước mất của con người
những giá trị, có thể nói, vuợt ra khỏi phạm vi khoa học. Những giá trị, như
cái thiện, lòng từ bi, tình yêu, cái đẹp, lòng trắc ẩn, v.v.., không mâu thuẫn
với khoa học, nhưng cũng không hoàn toàn nằm trong phạm vi của khoa học. Chúng
có bản chất siêu hình, vì chúng không thể tách ra được từ các dữ liệu của khoa
học tự nhiên, nhưng tầm quan trọng của chúng thậm chí còn hơn cả tầm quan trọng
của tồn tại người đối với các lý thuyết khoa học.
Khoa học tự nhiên tự nó không thể xây dựng được một bức
tranh tổng thể về thế giới. Chính vì vậy mà nó luôn sa vào thứ siêu hình học tầm
thường. Và cũng do vậy mà việc loại bỏ các tham vọng siêu hình học đã trở thành
một đặc trưng của nhận thức khoa học hiện đại. Phương pháp luận của nhận thức
khoa học đã được phát triển dưới những đòi hỏi phải phân định dành mặch giữa
khoa học tự nhiên và siêu hình học trong suốt thế kỷ XX. Sự tự phân định của
khoa học tự nhiên khỏi siêu hình học đòi hỏi phải thừa nhận rằng, nó không thể
đáp ứng được mọi nhu cầu tinh thần của con người, mà chỉ đáp ứng được một bộ phận
nhu cầu ấy. Điều này dĩ nhiên không hạ thấp ý nghĩa của nhận thức khoa học.Nó
cũng không hạ thấp giá trị chung của các chân lý khoa học được luận chứng trên
cơ sở của những phương pháp khoa học chặt chẽ và hợp lý. Đồng thời, cũng cần phải
thừa nhận rằng, các khoa học tự nhiên và toàn bộ khoa học không thể đem lại một
bức tranh chỉnh thể về thế giới, mà chỉ đem lại một mảng hiện thực được tái hiện
nhờ các phương pháp nhận thức tương ứng và phù hợp với các mục đích nhận thức
tương ứng. Các đặc trưng của mảng hiện thực ấy luôn cần được xem xét lại và chuẩn
xác hoá trong quá trình phát triển của tri thức khoa học.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng, khoa học không thể
thay thế hay có thể loại bỏ được siêu hình học. Siêu hình học, về nguyên tắc,
là không thể loại ra khỏi tồn tại người. Song, đến lượt mình, siêu hình học
không thể không tính đến các thành tựu của khoa học, nhất là của khoa học tự
nhiên hiện đại. Nó phải đưa ra câu trả lời cho các vấn đề, như định hướng lẽ sống
của con người, khát vọng của con người hướng tới cái vĩnh cửu và khắc phục tính
hữu hạn của cuộc sống cá nhân. Cái chết không làm cho con người vừa lòng, bởi
nó không đưa lại cho con người một cái nhìn triệt để, sâu sắc về mặt bản thể luận
của cuộc sống con người”(2). Cho dù khoa học có khẳng định tính tất yếu của cái
chết thì con người vẫn không thể coi nó giống như một sự kiện không có quan hệ
gì với họ. Trong con người luôn có nhu cầu siêu việt hoá - vượt ra khỏi giới hạn
của tồn tại hiện có. Và chỉ có siêu hình học mới đáp ứng được nhu cầu này của
con người, đáp ứng bằng cách tìm tòi các nền tảng văn hoá của tồn tại con người.
Văn hoá hoá tồn tại người được coi là con đường siêu việt hoá của con người, và
do vậy, siêu hình học biến thành siêu hình học văn hoá. Toàn bộ nhân học hiện đại,
về thực chất, là cái đóng vai trò siêu hình học hiện đại.
Nguồn:Tạp chí Triết học
Nguồn online: http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/sieu_hinh_hoc-ton_tai_hay_khong_ton_tai.html
Đánh giá bài viết?