Những tư tưởng của V.I.Lênin về sự tác động lẫn nhau giữa các khoa học và sự thể hiện những tư tưởng đó trong thực tiễn

Nguyễn Trọng Chuẩn
Sách Một số vấn đề về Triết học - Con người - xã hội

Từ những năm 50 thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt của thế giới. Những cuộc cách mạng đó không thể diễn ra được nếu không có khoa học. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật sẽ không thể xuất hiện được nếu không có khoa học tự nhiên và chắc chắn sẽ không tiến triển thuận lợi không mang lại những kết quả hoàn toàn tích cực nếu thiếu khoa học xã hội. Ngược lại, những cuộc cách mạng xã hội theo hướng XHCN, tức là những cuộc cách mạng lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và các chế độ bóc lột khác để xây dựng CHXH và chủ nghĩa cộng sản, sẽ không thể diễn ra được nếu thiếu khoa học xã hội Mác - Lênin và sẽ không thể đưa đến chủ nghĩa cộng sản nếu thiếu khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.

Chính vì khoa học có vị trí quan trọng như vậy cho nên, tiếp theo C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin quan tâm nhiều đến sự phát triển của khoa học, theo sát sự phát triển đó, tự mình đề ra nhiều tư tưởng mới. V.I.Lênin đã nêu lên những nhận xét, đánh giá xác đáng về vai trò ngày càng tăng của khoa học trong đời trong xã hội. Đồng thời, qua các tác phẩm lý luận và qua sự chỉ đạo thực tiễn của V.I.Lênin chúng ta thấy, Người cũng nêu lên những nguyên tắc có tính phương pháp luận về sự phát triển của khoa học, về sự lựa chọn phương hướng nghiên cứu, về việc giải quyết các vấn đề kế hoạch hoá, đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ các nhà khoa học và quản lý hoạt động khoa học. Bao trùm lên tất cả là tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội, giữa triết học và các khoa học cụ thể.

Trước Lênin, Mác và Ph.Ăngghen đã rất chú ý đến mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa các khoa học. Ngay từ trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã cho rằng, tình trạng tách rời giữa các khoa học, sự phân chia một cách quá cứng nhắc giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là có nguyên nhân lịch sử và nguyên nhân nhận thức của nó. Nhưng, theo Mác, đó không phải là hiện tượng vĩnh viễn. Với sự phát triển của lịch sử và của văn hoá nhân loại, tình trạng đó sẽ được khắc phục và "về sau khoa học tự nhiên bao hàm trong nó khoa học về con người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó khoa học tự nhiên: đó sẽ là một khoa học" C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy tính tất yếu của sự thống nhất, sự tổng hợp các khoa học ngay từ khi sự phân ngành các khoa học đang diễn ra rất mạnh và đang là xu hướng chiếm ưu thế. Xuất phát từ những nguyên lý của phép biện chứng duy vật và từ sự phân tích, sự khái quát những thành tựu của khoa học, Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách thuyết phục về sự thống nhất của thế giới và của tri thức nhân loại, tức là của các khoa học. Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó, cho nên các khoa học phải phản ánh được tính thống nhất đó và vì thế sự tác động và sự thống nhất của tri thức khoa học là điều tất yếu. Nói cách khác, mối quan hệ, sự tác động lẫn nhau và sự thống nhất các ngành khoa học chẳng qua chỉ là sự phản ánh của những mối liên hệ và tác động lẫn nhau trong thực tế của các hiện tượng của bản thân hiện thực. Mặt khác, để xâm nhập ngày càng sâu hơn vào hiện thực khách quan đó, để xây dựng được một bức tranh đầy đủ và khoa học về thế giới thì sự hỗ trợ lẫn nhau vạ tác động lẫn nhau giữa các khoa học là hoàn toàn hợp quy luật, là logic bên trong của sự phát triển của khoa học.

Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin phát triển trong điều kiện mới khi khoa học tự nhiên ở trong trạng thái "đảo lộn cách mạng", khi khoa học xã hội mácxít đã có cơ sở kinh tế - xã hội thích hợp cho sự phát triển của nó trên 1/6 quả đất, khi từ chỗ là công cụ mà các nhà tư bản dùng để bóc lột và nô dịch quần chúng lao động, khoa họe trở thành vũ khí cải tạo xã hội và cải tạo tự nhiên và khi mà, như Lênin nói: "tất cả những cái kỳ diệu của kỹ thuật, tất cả những thành quả của văn hoá sẽ trở thành tài sản của toàn dân", vì lợi ích của chính nhũng người lao động. Lênin không quan niệm rằng, sự tác động giữa các khoa học chỉ di theo một chiều, mà ông nhận thấy trong tiến trình phát triển của các khoa học, hai nhóm khoa học chủ yếu ấy ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Trong lịch sử, ảnh hưởng tích cực của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của khoa học xã hội là điều không thể chối cãi được. Lênin viết: "Trào lưu mạnh mẽ đi từ khoa học tự nhiên sang khoa học xã hội không những chỉ tồn tại ở thời đại Petty, mà cả ở thời đại Mác. Đến thế kỷ XX, trào lưu đó vẫn còn mạnh không kém thế, nếu không phải là mạnh hơn".

Nhận định đó của Lênin vẫn cồn rất đúng với những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 này. Chưa bao giờ những thành tựu, phương tiện và phương pháp của khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật lại tác động mạnh đến khoa học xã hội và được khoa học xã hội sử dụng nhiều như hiện nay. Những thành tựu của vật lý học, sinh học, vũ trụ học… đang giúp các khoa học xã hội làm chính xác thêm những tri thức đã có. Kỹ thuật thông tin và tính toán điện tử, các lý thuyết mô hình và vận trù, xác suất và thống kê… được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hồi. Ngay cả triết học cũng ngày càng liên hệ chặt hơn với các khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Sự phát triển của vật lý học, của cơ học lượng tử, của hoá học, của sinh học phân tử, của điều khiển học… đã và đang đặt ra trước triết học những vấn đề cần được làm sâu sắc thêm như vấn đề nhân quả, quyết định luận, vấn đề sự sống, vấn đề phản ánh, cơ chế và quá trình hình thành ý thức... Như Lênin viết: Vật lý học hiện đại chẳng hạn đã đề ra một loạt vấn đề mới mà chủ nghĩa duy vật biện chứng phải "giải quyết". Triết học sẽ trở nên nghèo nàn, lạc hậu và giáo điều nếu không thấy những cái mới do khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật đưa lại, nếu không gắn bó với thực tiễn sinh động của cuộc sống. Chính Lênin đã căn dặn: "Triết học không có quyền gì được tồn tại độc lập, và tài liệu của nó đều nằm ở trong các ngành khác nhau của khoa học thực chứng".

Song, là một nhà biện chứng vĩ đại Lênin nhìn nhận vấn đề rất toàn diện. Trong hàng loạt tác phẩm như: Các Mác, Phriđơríc, Ăngghen, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu… Lênin đề cập đến trào lưu ngược lại từ khoa học xã hội sang khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, trước hết là ảnh hưởng của thế giới quan và phương pháp luận của triết học và của các khoa học xã hội khác đối với khoa học này. Khi khoa học có những tiến bộ cực kỳ nhanh chóng và những đảo lộn cách mạng sâu sắc trong mọi lĩnh vực thì nó "không thể không cần đến những kết luận triết học" bởi vì lịch sử đã chứng tỏ rằng, khi xảy ra những đảo lộn ấy trong khoa học thì đồng thời cũng xảy ra sự lợi dụng chúng, bóp méo và xuyên tạc chúng nhằm chống lại khoa học và thế giới quan khoa học. Trong tình hình đó, "nếu không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt nhiên không có khoa học tự nhiên nào hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống được sự lấn bước của những tư tưởng tư sản và sự phục hồi của thế giới quan tư sản. Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và đưa nó đến thành công hoàn toàn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại, một đồ đệ tự giác của chủ nghĩa duy vật mà Mác là người đại diện, nghĩa là nhà khoa học tự nhiên ấy phải là một nhà duy vật biện chứng".

Khoa học thời đại chúng ta đang đi theo những chỉ dẫn của Lênin, chứng cớ là sinh học hiện đại, thiên văn học… đang ở trong một tình thế cách mạng tương tự vật lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX song nó không rơi vào khủng hoảng, không "sa chân, lạc bước" vào chủ nghĩa duy tâm là vì số đông các nhà khoa học, kể cả một số ở các nước tư bản, đã có bài học của vật lý học, đặc biệt là được sự hướng dẫn của phép biện chứng duy vật.

Trào lưu ngược lại từ khoa học xã hội sang khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật còn thể hiện ở một khía cạnh khác. Trong khi tác động với khoa học xã hội thì khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật cũng được làm giàu thêm về phương pháp và về nội dung. Chẳng hạn, nhiều đề tài và phương pháp, nhiều tư tưởng và nguyên tắc, nhiều khái niệm và phạm trù của triết học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học... đã xâm nhập vào điều khiển học. Cùng với sự phát triển của khoa học và do sự đòi hỏi của thực tiễn, nhiều khoa học liên ngành tự nhiên - xã hội, kỹ thuật - xã hội, hoặc tự nhiên - kỹ thuật - xã hội đã hình thành, thí dụ, khoa học lao động, điều khiển học kinh tế, tâm lý học kỹ thuật, mỹ thuật công nghiệp, ngôn ngữ học ứng dụng... Tất cả những sự kiện đó chứng tỏ rằng, các khoa học ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau.

Chúng ta sẽ mắc phải một thiếu sót nghiêm trọng nếu chỉ đề cập đến những tư tưởng của Lênin về vấn đề này ở mặt lý luận mà bỏ qua việc Lênin đã thực hiện những tư tưởng ấy trong thực tiễn. Ngay sau ngày cách mạng thành công, ở cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Lênin đã đề ra và yêu cầu thực hiện một loạt biện pháp, chính sách quan trọng nhằm sử dụng sức mạnh tổng hợp của tất cả các khoa học, của các chuyên gia khoa học thuộc tất cả các ngành vào công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng của Lênin chính là cơ sở cho chính sách khoa học, kỹ thuật của Đảng và Nhà nước Xô Viết. Tháng 4/1918, Lênin đã viết bản Sơ thảo kế hoạch công tác khoa học - kỹ thuật. Mục đích chiến lược của khoa học do Lênin nêu lên trong Sơ thảo kế hoạch công tác khoa học - kỹ thuật này có ý nghĩa lâu dài đối với công cuộc xây dựng CHXH và chủ nghĩa cộng sản. Về thực chất bản Sơ thảo kế hoạch công tác khoa học - kỹ thuật là cương lĩnh phức hợp đầu tiên để phát triển những nghiên cứu liên ngành, thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các lĩnh vực khoa học và sự tác động lẫn nhau giữa khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật mà theo Lênin đó là một kế hoạch khoa học “thực sự" thu hút tất cả các chuyên gia khoa học. Để đề ra kế hoạch này lúc đầu hơn 180 và sau đó hơn 200 chuyên gia, dưới sự chỉ đạo của Lênin, đã phải nghiên cứu xu hướng phát triển của khoa học, kỹ thuật, sản xuất, triển vọng các vùng kinh tế của Nga trong chỉnh thể. Đánh giá tầm quan trọng của kế hoạch GOENRO, Lênin cho rằng, "đó là cương lĩnh thứ hai của Đảng". Cương lĩnh này có nhiệm vụ "khôi phục toàn bộ nền kinh tế quốc dân và nâng nền kinh tế đó tới mức kỹ thuật hiện đại", là kế hoạch dài hạn đầu tiên của Nhà nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CHXH trên cơ sở điện khí hoá đất nước.

Nhận rõ tính chất bức thiết của các khoa học xã hội mácxít đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tháng 5/1918, V.I.Lênin tán thành chủ trương thành lập "Viện Hàn lâm XHCN các Khoa học xã hội" mà về sau được hợp nhất vào Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Người đã viết bản Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng Dân uỷ về việc thành lập Viện này, trong đó đề ra nhiều nhiệm vụ cụ thể và "coi việc tiến hành một loạt công trình nghiên cứu xã hội là một trong những nhiệm vụ hàng đầu”. viện Hàn lâm XHCN các Khoa học xã hội cũng có nhiệm vụ thực hiện tư tưởng về sự tổng hợp các khoa học khi nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc xây dựng xã hội XHCN.

Tất cả những tư tưởng, dự kiến và chỉ dẫn vượt trước thời đại đó của V.I.Lênin về việc sử dụng sức mạnh tổng hợp của tất cả các khoa học vào việc giải quyết các vấn đề phức hợp của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu được những kết quả ở Liên Xô và ở các nước xã hội chủ nghĩa. Sự tác động lẫn nhau, sự thống nhất các khoa học từ chỗ là vấn đề có tính chất lý thuyết, ngày nay đang trở thành vấn đề thực tiễn, được kiểm chứng trong thực tiễn. Bên cạnh sự tác động lẫn nhau và sự thống nhất được quy định về mặt bản thể cũng như về các mặt khái niệm, phạm trù, Phương pháp, mục đích, chức năng, các khoa học hiện đại còn thống nhất ở chỗ đáp ứng những yêu cầu mới của nền sản xuất xã hội hiện đại. Khoa học đang trỏ thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Chữ "khoa học" của mệnh đề này không còn hạn chế ở khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật nữa, nó đã mở rộng sang cả các khoa học xã hội. Trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay, khoa học xã hội ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với sản xuất và chính cách mạng khoa học - kỹ thuật tạo nên những điều kiện hết sức thuận lợi cho sự thống nhất khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Kỹ thuật sản xuất hiện đại, nhất là sự tự động hoá và hệ thống con người - máy móc hiện đại đang làm thay đổi vai trò của nhân tố con người, làm thay đổi nội dung và tính chất của lao động, làm cho liều lượng lao động cơ bắp giảm đi và do đó lao động trí lực tăng lên một cách đáng kể ngay trong cùng một kiểu sản xuất. Điều đó có nghĩa rằng, sự tham gia của con người vào quá trình sản xuất hiện đại đòi hỏi con người phải có những biến đổi tương ứng. Vì vậy, để cho hệ thống người - máy hoạt động hài hoà, ăn khớp nhau và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời giúp con người phát triển được toàn diện thì khoa học nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật phải có sự phối hợp chặt chẽ. Nói cách khác, cần áp dụng và khai thác tất cả những thành tựu của các khoa học rất khác nhau vào việc giải quyết vấn đề này.

Xã hội hiện đại, nền sản xuất và khoa học kỹ thuật của nó sẽ trở thành một mớ hỗn độn nếu thiếu sự quản lý một cách khoa học, nếu không dựa trên cơ sở khoa học. Yêu cầu quản lý xã hội về mọi mặt và "tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn" đã được Lênin nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Người căn dặn phải "học hỏi nghệ thuật quản lý", phải "học được một cách thực tiễn cách quản lý kinh tế quốc dân trong cả nước". V.I.Lênin đã khẳng định tính tất yếu của việc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của vấn đề quản lý và để làm được như vậy thì phải có tri thức về "những cơ sở của khoa học quản lý", nghĩa là phải có tri thức rộng, mang tính chất tổng hợp. Ngày nay, chính vấn đề quản lý đang là điểm thu hút sự đóng góp của nhiều ngành khoa học, là một trong những giao điểm diễn ra sự tác động lẫn nhau giữa các khoa học. Những giao điểm như thế hiện có rất nhiều, chẳng hạn, vấn đề kế hoạch hoá, vấn đề bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống, vấn đề lương thực, thực phẩm, vấn đề năng lượng, nguyên liệu, vấn đề đánh giá những thành tựu mới trong kỹ thuật và công nghệ...

Những tư tưởng trên đây của V.I.Lênin về khoa học, về quan hệ giữa các khoa học, về việc sử dụng sức mạnh của tất cả các khoa học trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là rất quý đối với chúng ta. Để tiến hành xây dựng CHXH nói chung và cách mạng khoa học - kỹ thuật nói riêng ngoài việc phải nắm được những quy luật của thiên nhiên trong điều kiện nhiệt đới ra, chúng ta còn phải nắm được các quy luật của xã hội ta, cùng những đặc điểm thể hiện của chúng. Sự hiểu biết về các quy luật ấy là do các khoa học cơ bản cung cấp. Hơn nữa, bản thân cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật không chỉ là sự biểu hiện, sự vận dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật mà nó còn là hiện tượng xã hội - lịch sử rất phức tạp. Vì vậy, không thể giải quyết tất cả các vấn đề do nó đặt ra nếu thiếu khoa học xã hội, nếu thiếu sự kết hợp giữa khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật. Tiến hành xây dựng CHXH trên quy mô cả nước trong khi cơ sở vật chất - kỹ thuật rất thấp, tiềm năng tài nguyên thiên nhiên chưa được điều tra ở mức độ cần thiết, khoa học phát triển chưa đồng bộ, lực lượng cán bộ quá phân tán, trình độ chưa cao và việc sử dụng, bố trí chưa hợp lý thì chúng ta càng cần huy động khả năng hiện có theo một kế hoạch thống nhất và một chương trình tổng hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất, càng cần "phải chú ý đến tính chất liên hợp và tác dụng tổng hợp của khoa học, kỹ thuật và mối quan hệ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội" (chúng tôi nhấn mạnh - N.T.C).

Việc sử dụng sức mạnh tổng hợp của khoa học, kỹ thuật vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể tách rời sự đóng góp và sự hợp tác nhiều mặt của các nhà khoa học và kỹ thuật. Lênin đã nêu cho chúng ta một tấm gương về vấn đề này. Trong khi nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa có bao nhiêu trí thức và các nhà khoa học của mình, Lênin chủ trương mạnh dạn sử dụng rộng rãi các chuyên gia khoa học và kỹ thuật tư sản là những người mà theo Lênin bị tiêm nhiễm thế giới quan và các thói quen tư sản, mang nặng tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản "mà chúng ta có nhiệm vụ phải cải tạo" để phục vụ chủ nghĩa cộng sản, bởi vì "muốn xây dựng chủ nghĩa cộng sản, cần phải nắm lấy kỹ thuật và khoa học... thế mà những thứ đó, người ta không thể lấy ở chỗ nào khác ngoài giai cấp tư sản". Thêm vào đó, trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, theo V.I.Lênin, không phải chúng ta cần một người hay một số ít người, mà là cần rất nhiều người có chuyên môn khác nhau. Đánh giá vai trò của các nhà khoa học, các chuyên gia, Lênin khẳng định: "Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được".

Điều kiện nước ta hiện nay không phải là điều kiện nước Nga sau Cách mạng tháng Mười. Chúng ta không những có các nhà khoa học, các chuyên gia được đào tạo dưới chế độ cũ, mà còn có một đội ngũ các nhà khoa học và chuyên gia do chúng ta đào tạo. Nếu biết phối hợp hoạt động, sử dụng được những mặt mạnh của mỗi loại, đồng thời biết tạo cho họ "những điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi, trước hết là phương tiện làm việc, phương tiện nghiên cứu như Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng đã chỉ rõ và như Liên Xô trước đây đã thực hiện theo chỉ thị của V.I.Lênin thì chắc chắn sẽ có lợi rất nhiều cho sự nghiệp của chúng ta. Trước đây, hiện nay và sau này cách mạng luôn luôn là sự nghiệp của quần chúng. Cách mạng khoa học - kỹ thuật cũng là sự nghiệp của quần chúng nhưng nếu không coi trọng, nhất là hiện nay, sức mạnh tổng hợp của tất cả các ngành khoa học, không coi trọng vị trí và vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, không tạo điều kiện cho họ làm việc thì sẽ là một thiếu sót lớn, sẽ làm chậm bước tiến của chúng ta rất nhiều. Về ván đề này, đồng chí Lê Duẩn đã viết: "Nói công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, nói xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa .xã hội, nói cách mạng kỹ thuật là then chốt mà ngoài những tiền đồ chính trị cơ bản - nếu không có một đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật đông đảo và tài giỏi thì không thể nào thực hiện được".

Kỷ niệm 110 năm ngày sinh của V.I.Lênin, đề cập đến một vài khía cạnh trong tư tưởng của Người về mối quan hệ, về sự tác động lẫn nhau giũa các khoa học và về sự chỉ đạo thực hiện cụ thể nhằm sử dụng sức mạnh tổng hợp của các khoa học và các nhà khoa học vào công cuộc xây dựng CHXH, chúng ta càng thấy việc khai thác những tư tưởng ấy, hơn thế nữa, việc vận dụng chúng một cách đúng đắn vào hiện tình của đất nước ta để mang lại kết quả tốt nhất là việc làm có ý nghĩa thiết thực.


Nguồn:Sách Một số vấn đề về Triết học - Con người - xã hội
Nguồn online: http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nhung_tu_tuong_cua_vilenin-5.html
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?