Triết học phương Tây hiện đại
Lưu Phóng Đồng (dịch giả: Lê Khánh Trường)
NXB Lý luận Chính trị
Đây là quyển giáo trình triết học hướng đến thế kỷ 21 trên
cơ sở lấy thái độ thực sự cầu thị của chủ nghĩa Marx mà đánh giá lại toàn bộ
triết học phương Tây hiện đại và mối quan hệ của nó với triết học Mácxít.
Về cơ bản, triết học phương Tây hiện đại là một hình thái lý
luận của thế giới quan và nhân sinh quan của giai cấp tư sản, là sự phản ánh thực
trạng xã hội tư bản chủ nghĩa ở những hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau. Trong
lần tái bản này, quyển TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI có sửa chữa, bổ sung và khắc
phục lối giới thiệu các trường phái triết học phiến diện hoặc sai lầm trước đó.
Tác giả Lưu Phóng Đồng sẽ lần lượt trình bày với bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực
này một dòng triết học với nhiều trào lưu, trường phái, chủ nghĩa (trào lưu chủ
nghĩa thực tại, trường phái Frankfurt, chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hiện
sinh, chủ nghĩa Kant mới, chủ nghĩa Freud...) gắn với nhiều triết gia nổi tiếng
của triết học phương Tây hiện đại. Chính sự phong phú và đa dạng đó đã tạo cho
triết học học phương Tây hiện đại một bức tranh nhiều màu sắc.
Việc tìm hiểu, học tập và nghiên cứu triết học phương Tây hiện
đại giúp chúng ta có được một nhận thức toàn diện, đúng đắn; thúc đẩy kết hợp
giữa việc nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại của nước ta với việc nghiên
cứu triết học chủ nghĩa Marx trong giai đoạn mới.
Lời Nhà xuất bản
Lời nói đầu
Khái luận
Chương 1: Chủ nghĩa thực chứng
Khái luận về chủ nghĩa thực chứng
Chủ nghĩa thực chứng của A. Comte
Chủ nghĩa quy nạp của J. S. Mill
Triết học tổng
hợp của H. Spencer
Chương 2:
Chủ nghĩa phi lý và chủ nghĩa duy ý chí
Khái luận về
chủ nghĩa phi lý và chủ nghĩa duy ý chí
Thuyết ý
chí sống của A. Schopenhauer
Chủ nghĩa
phi lý của S. A. Kierkegaard
Quyền lực ý
chí luận của F. W. Nietzsche
Chương 3:
Chủ nghĩa Kant mới
Khái luận về
chủ nghĩa Kant mới
Triết học của
F. Lange thuộc chủ nghĩa Kant mới sơ kỳ
H. Cohen và
trường phái Marburg
W.
Windelband và trường phái Freiburg
Chủ nghĩa
xã hội luân lý học của chủ nghĩa Kant mới
Chương 4:
Chủ nghĩa Mach
Khái luận về
chủ nghĩa Mach
Yếu tố nhất
nguyên luận của Mach
Chủ nghĩa
phê phán kinh nghiệm của R. Avenarius
Ước định luận của H. Poincare
Chương 5: Triết học đời sống
Khái luận về triết học đời sống
Triết học đời sống ở nước Đức cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20
Triết học đời sống của H. Bergson
Chương 6: Chủ nghĩa Hegel mới
Khái luận về chủ nghĩa Hegel mới
Chủ nghĩa Hegel mới ở nước Anh
Chủ nghĩa Hegel mới ở Mỹ
Chủ nghĩa Hegel mới ở Italia
Chương 7: Chủ nghĩa thực dụng
Khái luận về chủ nghĩa thực dụng
C. S. Peirce và việc sáng lập chủ nghĩa thực dụng
W. James và việc hệ thống hóa chủ nghĩa thực dụng
J. Dewey và sự phát triển của chủ nghĩa thực dụng
Chương 8: Trào lưu chủ nghĩa thực tại của thế kỷ 20
Khái luận về chủ nghĩa thực tại thế kỷ 20
Đối tượng luận của A. Meinong và chủ nghĩa thực tại bản thể
luận N. Hartmann
Tiến hóa luận đột biến của A. Alexander và triết học thể hữu
cơ của A. Whitehead
Chủ nghĩa thực tại Mỹ
Chủ nghĩa thực tại phê phán
Chương 9: Triết học phân tích (I)
Khái luận về triết học phân tích
Cha đẻ của triết học phân tích - G. Frege
Chủ nghĩa nguyên tử logic của B. Russell
Triết học tiền kỳ của L. Wittgenstein
Phong trào chủ nghĩa kinh nghiệm logic
Chương 10: Triết học phân tích (II)
Triết học hậu kỳ của L. Wittgenstein
Triết học ngôn ngữ thường ngày
Chủ nghĩa thực dụng logic của W. V. Quine
Chủ nghĩa bản chất của S. Kripke
Sự phát triển mới nhất của triết học phân tích - D. H.
Davidson và M. Dummett
Chương 11: Hiện tượng học
Khái luận về hiện tượng học và hoạt động triết học của E.
Husserl
Phê phán chủ nghĩa tâm lý
Thuyết ý đồ
Phương pháp của hiện tượng học
Thế giới đời sống và phương pháp giải thích lịch sử mục đích
luận
Mối quan hệ giữa hiện tượng học của Husserl với chủ nghĩa hiện
sinh
Chương 12: Chủ nghĩa hiện sinh
Khái luận về chủ nghĩa hiện sinh
Triết học hiện sinh của M. Heidegger
Triết học hiện sinh của K. Jaspers
Chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre
Chương 13: Triết học nhân loại học và triết học văn hóa nhân
loại
Khái luận về triết học nhân loại học
M. Scheler và việc sáng lập triết học nhân loại học
Mấy hình thái mới của triết học nhân loại học
Triết học văn hóa nhân loại của E. Cassirer
Chương 14: Chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hậu cấu trúc
Khái luận về chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hậu cấu trúc
Mô hình ngôn ngữ học của chủ nghĩa cấu trúc
Lý thuyết xã hội theo chủ nghĩa cấu trúc của C. Levi-Strauss
Chủ nghĩa cấu trúc “mácxít” của L. Althusser
Thuyết phân tâm theo chủ nghĩa cấu trúc của J. Lacan
Chủ nghĩa cấu trúc phát sinh học
Lý luận cấu trúc tan vỡ của R. Barthes và phê phán bản văn
luận
Chủ nghĩa hóa giải cấu trúc của J. Derrida
Chủ nghĩa hậu cấu trúc của M. Foucault
Chương 15: Chủ nghĩa Freud
Khái luận về chủ nghĩa Freud
Hai phát hiện lớn của chủ nghĩa Freud sơ kỳ
Hai phát hiện lớn được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực lịch
sử xã hội
A. Adler và C. Jung cải biến và phát triển học thuyết của
Freud
Chủ nghĩa Freud mới
Chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Marx
Chương 16: Trường phái Frankfurt
Khái luận về trường phái Frankfurt
Lý luận phê phán xã hội của M. Horkheimer
Lý luận phê phán xã hội của T. W. Adorno
Lý luận phê phán xã hội của J. Habermas
Chương 17: Triết học thích nghĩa học
Khái luận về triết học thích nghĩa học
Nguồn gốc lịch sử của triết học thích nghĩa học
Triết học thích nghĩa học của M. Heidegger
Triết học thích nghĩa học của H. G. Gadamer
Triết học thích nghĩa học của P. Ricoeur
Chương 18: Triết học khoa học phương Tây đương đại
Phủ chứng luận của K. Popper
Chủ nghĩa phủ chứng hoàn hảo của I. Lacatos
Sự hưng khởi của trường phái chủ nghĩa lịch sử
Phương pháp luận đa nguyên và chủ nghĩa tương đối của P.
Feyerabend
L. Laudan với phần kết của chủ nghĩa lịch sử
Thực tại luận khoa học
Sự tranh cãi giữa thực tại luận khoa học với thực tại luận
phản khoa học
Chương 19: Triết học tôn giáo phương Tây hiện đại
Khái luận về triết học tôn giáo phương Tây hiện đại
J. Maritain và chủ nghĩa Thomas mới
B. P. Bowne và chủ nghĩa nhân cách Mỹ
E. Mounier và chủ nghĩa nhân cách Pháp
Tillich với thần học chủ nghĩa chính thống mới
Chương 20: Xu thế phát triển của triết học phương Tây hiện đại
và chủ nghĩa hậu hiện đại
Khuynh hướng phát triển chính của triết học phương Tây hiện
nay
1. Bước ngoặt của triết học phương Tây từ cận đại tới hiện đại.
2. Quá trình phát triển của triết học phương Tây hiện đại
3. Mối quan hệ giữa triết học phương Tây hiện đại với triết
học chủ nghĩa Marx
4. Triết học phương Tây hiện đại với sự phát triển của triết
học Trung Quốc đương đại
Sự hưng khởi và khuynh hướng cơ bản của trào lưu chủ nghĩa hậu
hiện đại
Sự miêu tả “tình hình hậu hiện đại” của J. Lyotard
Chủ nghĩa thực dụng mới và văn hóa hậu hiện đại của R. Rorty
Sự kế tục và vượt qua triết học phương Tây hiện đại của chủ
nghĩa hậu hiện đại đương đại
Xu hướng của chủ nghĩa hậu hiện đại với triết học đương đại
Khái luận
“Triết học phương Tây hiện đại” là một khái niệm bao hàm nhiều
nghĩa. Theo nghĩa rộng, nội dung của nó có thể và cần phải bao gồm triết học chủ
nghĩa Marx ra đời ở phương Tây và lưu truyền tại các nước phương Tây. Nhưng do
triết học chủ nghĩa Marx khác về bản chất với các trường phái triết học khác ở
phương Tây, mà ở Trung Quốc nó được lấy làm tư tưởng chỉ đạo cho sự nghiệp của
chúng ta, là một môn học độc lập và chủ yếu trong hệ thống giảng dạy triết học,
mà không bao hàm giáo trình “Triết học phương Tây hiện đại” nữa. Sách này sẽ đặt
triết học phương Tây hiện đại và triết học chủ thiệu, đồng thời giải thích mối
quan hệ giữa triết học phương Tây hiện đại với triết học cổ điển và triết học
chủ nghĩa Marx theo cách mới, nhưng sẽ không trình bày nội dung cụ thể của triết
học chủ nghĩa Marx.
Triết học phương Tây hiện đại hình thành và phát triển ở
phương Tây tư bản chủ nghĩa, ở mức độ nhất định có thể nói đó là hình thái lý
luận của thế giới quan và nhân sinh quan giai cấp tư sản, do vậy mà giới triết
học Trung Quốc trước đây gọi nó là triết học tư sản hiện đại; điều này không phải
là vô căn cứ, bởi lẽ triết học là một loại hình thái ý thức, trong xã hội có
giai cấp ắt gắn với lợi ích của một giai cấp nhất định. Trước khi chủ nghĩa
Marx ra đời, một số nhà tư tưởng phương Tây đã nói đến việc tất yếu phải vận dụng
phương pháp phân tích giai cấp. Nhưng dù ở trong một xã hội có giai cấp, triết
học vẫn còn có nội hàm văn hoá của một hình thái ý thức siêu giai cấp nào đó.
Cho nên, nếu đơn giản hoa hoặc tuyệt đối hoá phương pháp phân tích giai cấp,
cũng sẽ thoát ly thực tế phát triển của triết học phương Tây hiện đại, không thể
giải thích nó một cách chính xác. Để tránh tính phiến diện, hiện nay đa số
không gọi triết học phương Tây hiện đại đơn giản là triết học tư sản, mà gọi một
cách chung chung là triết học phương Tây. Sách này cũng xử lý kiểu đó.
Về giới hạn thời gian của triết học phương Tây hiện đại, giới
triết học cũng chưa có cách nhìn thống nhất. Triết học phương Tây hiện đại mà
sách này đề cập là triết học phi Marx ra đơif và lưu truyền ở các nước phương
Tây từ giữa thế kỷ 19 đến nay. Đó chủ yếu là vì giữa thế kỷ 19 có một bước ngoặt
quan trọng trong sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại. Xét từ đặc điểm
lý luận cơ bản và khuynh hướng phát triển (hoặc phương thức tư duy), triết học
từ đó trở đi ngày càng biến đổi khác với triết học trước đây, đặc biệt là khác
hẳn triết học cận đại từ Descartes trở đi. Để phân biệt hai thứ đó, từ đây
chúng tôi đều xếp triết học phương Tây vào khái niệm “triết học phương Tây hiện
đại”.
Mối quan hệ giữa triết học phương Tây hiện đại với triết học
chủ nghĩa Marx
Triết học phương Tây hiện đại và triết học chủ nghĩa Marx
(hoặc gọi tắt là triết học Mácxít) đều ra đời như là sự kiện kế thừa có chọn lọc
triết học phương Tây cận đại và triết học cổ điển, sự lưu truyền và phát sinh ảnh
hưởng của chúng lại gần như trong cùng một thời đại lịch sử, giữa chúng tất
nhiên có quan hệ mật thiết. Nhưng triết học phương Tây hiện đại, suy cho cùng
là hình thái lý luận của thế giới quan giai cấp tư sản. Do đó, bất kể xét từ bối
cảnh giai cấp xã hội, hình thái lý luận và chức năng, đều có sự khác biệt về
nguyên tắc so với triết học mácxít thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp
vô sản.
Chế độ xã hội chủ nghĩa và mục đích lâu dài xây dựng chủ
nghĩa cộng sản của nước ta chỉ có thể sử dụng triết học Macxít, chứ không thể sử
dụng bất cư triết học nào khác làm tư tưởng chỉ đạo. Bởi vậy, trong nghiên cứu
triết học, chúng ta không được dùng triết học phương Tây hiện đại thay thế hoặc
làm suy yếu triết học mácxít. Nhưng chính sách cải cách mở cửa đòi hỏi chúng ta
mở rộng, đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá các
nước phương Tây, trong lĩnh vực triết học cũng cần có thái độ mở cửa. Chúng ta
đương nhiên phải coi việc làm phong phú và phát triển triết học mácxít là nhiệm
vụ căn bản của việc nghiên cứu triết học, song không bái xích việc nghiên cứu
triết học phương Tây hiện đại. Từ góc độ khác, chúng ta cũng không nên tách biệt
hoặc đối lập việc nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại với nghiên cứu triết
học mácxít, mà phải làm cho việc nghiên cứu đó phục vụ cho việc làm phong phú
và phát triển triết học mácxít. Chúng ta không những cần hiểu sâu, hiểu đúng và
cụ thể về triết học phương Tây hiện đại, mà còn phải nhận thức sâu sắc và xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa nó với triết học mácxít.
Gần đây giới triết học nước ta đã khắc phục được thái độ phủ
định sạch trơn, tồn tại suốt một thời gian dài, đối với triết học phương Tây hiện
đại, đã bắt đầu đi sâu nghiên cứu trở lại nền triết học đó và đạt một số thành
tựu ngang tầm quốc tế. Song việc nghiên cứu ấy phần lớn còn chưa vận dụng và
thúc đẩy nghiên cứu chủ nghĩa mácxít, hai triết học đó vẫn ở tình trạng tách rời
nhau. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình đó là do người ta còn nhiều lo ngại khi
xem xét mối quan hệ giữa triết học phương Tây hiện đại với triết học mácxít. Thứ
nhất, đối với triết học phương Tây hiện đại, ngoài việc nói chung khẳng định
nhân tố tồn tại hợp lý của nó, cần đánh giá chính thể như thế nào? Sự hình
thành và phát triển của chúng trong lịch sử triết học có phải là tiến bộ hay
không? Thứ hai, từ góc độ phương thức cơ bản của tư duy triết học mà nói, quan
hệ giữa triết học mácxít với triết học phương Tây hiện đại là gì? Như thế nào mới
là thật sự kiên định chủ nghĩa Marx? Muốn cho việc học tập và nghiên cứu triết
hoc phương Tây hiện đại phù hợp mục tiêu làm phong phú và phát triển triết học
mácxít, phải giải quyết được mấy vấn đề trên.
Ở mục “bước ngoặt của triết hoc phương Tây từ cận đại sang
hiện đại”, chúng tôi đã bàn về phương diện thứ nhất của vấn đề. Dưới đây, thông
qua việc so sánh sự chuyển hình của triết học phương Tây với triết học mácxít ở
sự thay đổi cách mạng trong triết học, sẽ giải quyết phương diện thứ hai.
3.1 Mối quan hệ giữa triết học mácxít với triết học phương
Tây cận đại và hiện đại về mặt phương thức tư duy triết học
Sự chuyển hình cận hiện đại của triết học phương Tây, với
triết học mácxít, trên bình diện sự thay đổi cách mạng trong triết học cùng là
sự phủ định và vượt qua triết học phương Tây cận đại, có sự giống nhau về bối cảnh
điều kiện lịch sử xã hội văn hoá tư tưởng; xu thế chấm dứt triết học cận đại là
nguyên nhân dẫn đến sự hình thành hai cái sau. Quan điểm của giới triết học về
điều này không có bất đồng nghiêm trọng. Cần tiến thêm xem xét vấn đề chủ yếu
là; đối với việc phủ định và vượt qua triết học cận đại, như cầu xây dựng nền
lý luận mới, hai cái đó chỉ có sự đối lập căn bản, hay là còn có điểm giống
nhau đáng kể?
Quan điểm phổ biến trước đây là: triết học mácxít đã loại trừ
chủ nghĩa duy tâm và siêu hình của triết học truyền thống cận đại, kế thừa một
cách có phê phán chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, đã xây dựng hệ thống triết
học chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Còn triết học
phương Tây hiện đại, thì do nó bái xích chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng,
nên suy cho cùng tất nhiên là quay về chủ nghĩa duy tâm siêu hình. Do vậy, mặc
dù hai cái đều phủ định và vượt qua triết học cận đại, nhưng phương hướng phủ định
và vượt qua của mỗi bên không giống nhau, nên tất nhiên ở thế đối lập căn bản với
nhau. Cái trước (triết học mácxít) là sự thay đổi cách mạng trong triết học;
còn cái sau (triết học phương Tây hiện đại) không phải là bước tiến trong sự
phát triển triết học, thậm chí là phản động so với truyền thống tiến bộ của triết
học cổ điển.
Mây năm qua, tuy có ngày càng nhiêu người thừa nhận triết học
phương Tây hiện đại có chứa đưng nhân tố hợp lý, song quan điểm vừa trình bày vẫn
được đa số kiên trì. Nguyên nhân chủ yếu là do họ thường vẫn chiếu theo phương
thức tư duy triết học cận đại để xem xét sự thay đổi của hai cái này.
Như trên đã đề cập, xét từ phương thức tư duy triết học cận
đại, thì sự hình thành của triết học phương Tây hiện đại quả thật khó được coi
là tiến bộ của triết học, bởi lẽ họ không chỉ phản bác chủ nghĩa duy vật, mà
còn thông qua yêu cầu vượt qua phân lập nhị nguyên mà căn bản thủ tiêu vấn đề
quan hệ chủ khách, tâm vật, tư duy và tồn tại, là tiêu chuẩn phân biệt duy tâm,
duy vật, điều này phủ định cơ sở tồn tại của chủ nghĩa duy vật. Nếu chiếu theo
phương thức tư duy triết học cận đại để xem xét triết học mácxít, quy kết sự
thay đổi cách mạng mà nó thực hiện trong triết học là để xây dựng một hệ thống
lý luận duy vật chủ nghĩa triệt để, thì dĩ nhiên cũng sẽ cho rằng, nó đối lập
căn bản vơi triết học phương Tây hiện đại. Nếu ai đó muốn thông qua việc phát
hiện nhân tố duy vật chủ nghĩa trong triết học phương Tây hiện đại để tìm cái
giống nhau giữa triết học phương Tây hiện đại để tìm cái giống nhau giữa triết
học phương Tây hiện đại và triết học mácxít, thì rất khó thu được kết quả đáng
kể, thậm chí còn dễ bị hiểu lầm. Bởi vì, vượt qua việc lấy phân lập nhị nguyên
chủ khách, tâm vật, tư duy và tồn tại, tiêu chuẩn phân biệt duy tâm vật, làm một
phương thức tư duy triết học mới, chính là một đặc trưng cơ bản của triết học
phương Tây hiện đại khác với triết học cận đại. Ở mức độ nhất định có thể nói rằng,
ai khẳng định càng nhiều thành phần duy vật chủ nghĩa trong triết học phương
Tây hiện đại, thì người ấy càng thoát ly xa hơn thực tế.
Nhưng chiều theo phương thức tư duy triết học cận đại để lý
giải triết học mácxít tất sẽ bóp méo chủ nghĩa Marx chân chính. Dù cái sau có sự
khác biệt nguyên tắc với triết học phương Tây hiện đại nhưng cả hai đều vượt
qua phương thưc tư duy triết học cận đại. Muốn kiên trì lập trường triết học
mácxít chân chính và lý giải mối quan hệ giữa triết học mácxít với triết học
Phương Tây hiện đại phù hợp thực tế, cần phải vượt qua phương thức tư duy triểt
học cận đại, chuyển hướng sang phương thức tư duy triết học hiện đại mà triết học
mácxít đề xướng.
Biểu hiện rõ nhất của việc chiếu theo phương thức tư duy triết
học cận đại để lý giải triết học mácxít là quy kết nó vào một hệ thống lý luận
có vài quy luật phổ biến đủ khả năng phản ánh mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tinh thần; cho rằng, chỉ cần nắm vững mấy quy luật cơ bản ấy là có thể xuất
phát từ đó hoặc dựa trên đó mà phát hiện quy luật đặc thù của mọi lĩnh vực. Kiểu
lý giải này có thể lấy triết học mácxít làm cơ sở và bản chất của hết thảy tồn
tại và nhận thức, làm hệ thống căn cứ của khoa học và tri thức, mà đây chính là
quan niệm cơ bản của triết học cận đại trong việc xây dựng lý luận của nó. Mặc
dù người ta nhấn mạnh giữa triết học mácxít và triết học cận đại có sự khác biệt
bản chất, việc lý giải của họ về lý luận triết học mácxít đúng là đã khắc phục
tính hạn chế của nhiều học thuyết triết học cận đại như của Hegel, Feurbach,
song vẫn chưa vượt qua khuôn khổ lý luận cơ bản do phương thức tư duy triết học
cận đại tạo nên, nghĩa là vẫn chiều theo phương thức tư duy siêu hình học truyền
thống để lý giải triết học mácxít. Kết quả tất nhiên là xa rời sự thay đổi cách
mạng mà chủ nghĩa Marx đã thực hiện, quay trở lại trình độ của siêu hình học
truyền thống.
Phương thức tư duy triết học hiện đại mà triết học mácxít thực
hiện là như thế nào? Hoặc giả nói, triết học mácxít vượt qua triết học cận đại
mà xây dựng nền triết học mới, thực hiện sự thay đổi cách mạng trong triết học
ra sao? Đây là vấn đề phức tạp, cần được nghiên cứu và thảo luận từ nhiều mặt.
Nhưng chúng tôi nói chung, có thể khẳng định: Những gì mà triết học phương Tây
hiện đại vượt qua triết học cận đại, thì triết học mácxít cũng đã thực hiện sự
vượt qua tương tự. Thực tế, khuynh hướng tư biện siêu hình của triết học cận đại
(nhất là ý đồ xây dựng một hệ thống bao trùm hết thảy và biến triết học thành
khoa hcọ của mọi khoa học), tuyệt đối hoá lý tính, tuyệt đối hoá sự phân lập nhị
nguyên chủ thể và khách thể, tâm và vật, tư duy và tồn tại; khuynh hướng bị động
tiêu cực và hoài nghi, trừu tượng hoá tồn tại của con người, đặc biệt là khuynh
hướng coi con người như thủ đoạn và làm tha hoá con người, đều luôn là những
khuynh hướng mà K. Marx kịch liệt phê phán và đòi phải khắc phục.
Sau khi từ bỏ triết học cũ, xây dựng triết học ,mới, K. Marx
không chỉ có quan điểm lý luận cụ thể khác với triết học qua khứ, điều quan trọng
hơn là K. Marx triệt để đả phá toàn bộ triết học cũ và lấy đó làm tiền đề xuất
phát. K. Marx quan tâm không chỉ đi tìm bản chất của thế giới hay nguồn gốc của
tinh thần, không chỉ xây dựng một hệ thống lý luận hoàn chỉnh vẽ nên cả thế giới,
mà là trực tiếp hướng tới đới sống hiện thực của con người. Quan điểm thực tiễn
là quan điểm số một, quan điểm cơ bản của triết học mácxít. Song không phải là
lấy nó làm bản nguyên hay bản thể, không dựa trên thực tiễn để xây dựng một hệ
thống triết học bao la vạn tượng, mà là thông qua việc nhấn mạnh tác dụng hạt
nhân của thực tiễn để phát huy đầy đủ tính năng động sáng tạo của con người,
thúc đẩy sự phát triển tự do và toàn diện cho con người. Về mặt lý giải như thế
nào việc triết học macxít coi thực tiễn là khái niệm hạt nhân còn nhiều vấn đề
cần thào luận, nhưng tối thiểu chúng tôi cần khẳng định: thực tiễn không phải
là hoạt động vật chất hoặc tinh thần đơn thuần, mà là hoạt động năng động thống
nhất cảm tính và lý tính; thực tiễn vừa là chủ quan vưa là khách quan; là sự thống
nhất chủ khách, Trên ý nghĩa nhất định có thể nói, sở dĩ triết học cận đại sa
vào tính phiến diện, mâu thuẫn và sai lầm, nguyên nhân căn bản là đã coi nhẹ hoặc
chưa lý giải đúng ý nghĩa của thực tiễn con người; còn chủ nghĩa Marx thì thông
qua việc đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của thực tiễn và triệt để vượt qua siêu hình học
mà thực hiện sự thay đổi cách mạng trong triết học.
3.2 Chỗ giống nhau và khác nhau giữa triết học Mácxít và triết
học phương Tây hiện đại trong việc vượt qua triết học cận đại
Triết học mácxít, không phải lấy thực thể hay bản nguyên làm
cơ sở và xuất phát điểm, mà là lấy thực tiễn làm cơ sở và xuất phát điểm; không
phải xây dựng một hệ thống triết học bao la vạn tượng, mà là vượt qua mọi hệ thống
đóng, chết cứng, trở về với thế giới đời sống hiện thực của con người; không phải
dựa trên cơ sở độc đoán lý tính và phân lập nhị nguyên chủ khách, tâm vật làm
cho con người bị phiến diện hoá tha hoá, mà là trở về con người sống động, cụ
thể, hoàn chỉnh; đồng thời mở đường cho con người phát huy tư do và tính sáng tạo.
Đó cũng chính là những điểm mà phương thức tư duy triết học mới của triết học
mácxít vượt qua phương thức tư duy triết học của triết học cận đại.
Khi chúng ta xem lại triết học phương Tây hiện đại đã vượt
qua triết học cận đại như thế nào, thì dễ dàng phát hiện rằng, về chính thể nó
chưa vượt ra ngoài phạm vi mà triết học mácxít thực hiện. Nói cách khác, tất cả
những gì mà các trường phái triết học phương Tây hiện đại từ góc độ của họ vượt
qua khuyết điểm và mâu thuẫn của triết học cận đại, thì triết học mácxít ngay từ
khi mơi ra đời đã đề xuất cả rồi, thậm chí còn đề xuất dưới hình thức minh xác
và triết để hơn. Điều này chứng tỏ, xét từ góc độ vượt qua triết học cận đại,
thì có sự giống nhau rất lớn giữa triết học phương Tây hiện đại và triết học
mácxít. Cả hai có thể nói là khác đường cùng đích, đều thuộc về phương thức tư
duy triết học hiện đại, có quan hệ đồng chất ở mức độ nhất định.
Điều này đương nhiên không phủ định sự khác biệt quan trọng,
thậm chí mang tính nguyên tắc, giữa hai bên. So với triết học mácxít, các trường
phái triết học phương Tây hiện đại khi vượt qua triết học cận đại hầu như đều
chưa triệt để, thậm chí tự mâu thuẫn. Họ tái phạm, thậm chí phát triển tính phiến
diện của triết học cận đại. Ví dụ, họ kịch liệt phê phán khuynh hướng siêu hình
của triết học truyền thống, song lại vô hình tạo ra một loại siêu hình tạo ra một
loại siêu hình mới. Họ phê phán sự độc đoán lý tính và chủ nghĩa tuyệt đối của
triết học truyền thống, song do coi nhẹ, thậm chí bài xích tác dụng của lý tính
ma nhảy sang một cực đoan khác, tức là theo chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa
phi lý…
Tóm lại, việc triết học phương Tây hiện đại vượt qua triết học
cận đại có hạn chế rất lớn. Mỗi trường phái triết học thường chỉ vượt qua ở một
phương diện hoặc một khâu nhất định, ở phương diện khác thì vẫn quanh quẩn
trong khuân khổ của triết học truyền thống. Chỉ có thông qua cả quá trình phát
triển lâu dài của toàn bộ triết học phương Tây hiện đại, mới có thể thực hiện
được sự vượt qua triết học cận đại. Nói cách khác, chủ nghĩa Marx ở giữa thế kỷ
19 đã cơ bản thực hiện được việc thay đổi phương thức tư duy triết học, còn triết
học phương Tây hiện đại thì phải đi qua con đường quanh co khúc khuỷu că một thế
kỷ mới thực hiện được việc đó.
Việc triết học mácxít vượt qua triết học cận đại không phải
là sự phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa có phê phán, gạn đục khơi trong. Khi
khắc phục hàng loạt tính phiến diện của triết học truyến thống, nó không sa vào
tính phiến diện khác, chỉ tiếp thu di sản triết học quý giá, thực hiện bước
phát triển mới. Trên ý nghĩa đó mà nói, triết học mácxít đã vượt qua triết học
truyền thống, còn vượt qua cả triết học phương Tây hiện đại.
3.3 Kiên định niềm tin vào triết học mácxít và mạnh dạn theo
gương triết học phương Tây hiện đại
Qua việc xem xét mối quan hệ giữa sự chuyển hình của triết học
phương Tây hiện đại và sự thay đổi cách mạng của triết học mácxít, chúng ta có
thể rút ra tối thiểu hai kết luận.
Thứ nhất, cần kiên định niềm tin vào triết học mácxít.
Do triết học mácxít đã vượt qua triết học truyền thống, còn
vượt qua cả triết học phương Tây hiện đại, càng thể hiện toàn diện và sâu sắc đặc
trưng của phương thức tư duy triết học hiện đại, càng thích ứng với yêu cầu
phát triển các mặt trong tình hình mới của xã hội hiện đại, cho nên chúng ta
không nên vì trong sự phát triển của nó xuất hiện một số quanh co mà mất đi niềm
tin vào nó.
Mây năm gần đây, uy tín của triết học mácxít bị tổn hại
nghiêm trọng, có người bị dao động niềm tin vào nó. Một trong những nguyên nhân
chủ yếu là do người ta cứ chiều theo phương thức tư duy triết học cận đại mà lý
giải nó, thành thử ý nghĩa vốn có của nó bị bóp méo. Muốn làm cho người ta kiên
định niềm tin vào triết học mácxít, cần vạch ra và khắc phục hiện tượng bóp méo
này.
Thứ hai, phải mạnh dạn nghiên cứu và theo gương triết học
phương Tây hiện đại.
Nếu thừa nhận triết học phương Tây hiện đại đã vượt qua triết
học cận đại, đang ở giai đoạn phát triển các hơn, thể hiện phương thức tư duy
triết học mới, tức là giống như triết học mácxít, thì đối với một số lý luận
trước kia thường bị phủ định sạch trơn, nay cần khảo sát lại. Có lẽ triết học
phương Tây hiện đại vượt qua triết học cận đại ở một số mặt, có tác dụng tiến bộ
đối với sự phát triển của triết học. Về chỉnh thể mà nói, việc triết học phương
Tây hiện đại vượt qua triết học cận đại vẫn chưa vượt ra ngoài phạm vi mà triết
học mácxít đã thực hiện, song xét về một vài phương diện và cục bộ thì rất có
thể nó bao hàm nội dung phong phú và sâu sắc hơn. Xét đến việc triết học mácxít
trong thời gian rất dài bị xuyên tạc, chưa thực hiện hoàn toàn những gì đáng lẽ
phải vượt qua, có khi thậm chí còn bị kéo trở về phương thức tư duy triết học
triết học cận đại, trong tình hình đó, hãy tiếp thu một cách có phê phán một số
tiến bộ của triết học phương Tây hiện đại, coi đó là kinh nghiệm có ích, bổ
sung một số mặt bất cập của triết học mácxít, hoặc thúc đẩy việc nghiên cứu các
mặt đó. Chính trên ý nghĩa đó, chúng tôi có thể nói rằng, việc nghiên cứu và
theo gương triết học phương Tây hiện đại là khâu không thể thiếu trong việc làm
phong phú và phát triển triết học mácxít.
Nguồn: NXB Lý luận Chính trị
Đánh giá bài viết?