Triết học nước Pháp (P2)

Henri Bergson - Phạm Quỳnh dịch
Thượng Chi văn tập - Bộ Quốc gia Giáo dục (1962)
Nguồn: http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/triet_hoc_nuoc_phap.html

V

Triết học nước Pháp về thế kỷ thứ 19 chia ra hai phần. Một phần mới thuật đó là chuyên chú về mặt sinh lý cùng tâm lý. Còn một phần nữa vẫn kế thừa học thống các đời trước mà lấy vạn vật, linh tính người ta làm mục đích cho sự tư tưởng.

Về đầu thế kỷ thứ 19, nước Pháp đã có một nhà siêu hình học lỗi lạc nhất tự đời Descartes, cùng Malebranche đến giờ: Maine de Brian (1766-1824). Học thuyết của ông khi mới xuất hiện không có mấy người biết, nhưng từ đấy đến nay ảnh hưởng mỗi ngày một rộng thêm ra. Cái đường lối ông đã mở ra có lẽ chính là đường lối của siêu hình học tất phải đi đến. Người ta thường gọi ông là “ông Kant của nước Pháp”, nhưng tư tưởng của ông thật là trái với tư tưởng nhà triết học Đức. Nhà triết học Đức cho rằng trí tuệ người ta không thể tới cõi tuyệt đối; ông thì nói rằng trí tuệ người ta có thể tới được cõi tuyệt đối được, nên lấy tuyệt đối làm mục đích cho tư tưởng mình. Như khi người ta gắng sức làm việc gì, biết rằng mình gắng sức, biết rằng sự gắng sức ấy ở mình mà ra, thế thì sự biết ấy không phải là sự biết thường, chính là một sự biết đặc biệt, vì không phải biết cái hiện tượng ở ngoài là sự gắng sức, mà biết cái chân tưởng ở trong là cái tự đó mà sinh ra gắng sức; chân tướng ấy tức Kant gọi “bản thể” (la réalité en soi) mà nói rằng người ta không bao giờ biết được. Nói rút lại thì siêu hình học của Maine de Brian là muốn cho trí tuệ người ta càng ngày càng xét sâu trong cõi “nội tâm”, tất thấy càng ngày càng tự cao minh lên, cho đến đạt tới cõi “tuyệt đối” của trời đất. Ông phát ra tư tưởng ấy, suy diễn cho đến cùng, không phải chỉ chủ tâm lập thành một học thuyết, xây lên một cái lâu đài lý tưởng mà thôi.


Maine de Biran (1766-1824)

Muốn nghiệm xem cái học của Maine de Biran có giống cái học của Pascal không, thì xét ngay học thuyết của Ravais-son là người vừa tổ thuật Pascal, vừa kế thừa Maine de Brian, lại vừa ham triết học cổ, mỹ thuật cổ của Hi lạp, thật là một mình gồm cả tư tưởng của mấy thời đại. Xem đó thì biết các nhà triết học Pháp, tuy mỗi người vẫn có một học thuyết riêng, nhưng không phải là không thừa tiếp một cổ điển trong nước, kế thiệu một học thống từ xưa. Như Descartes tuy là phản đối triết học cổ đại, nhưng chính cái học của ông vẫn có điều độ, có trật tự, là hai đặc tính của triết học cổ Hi lạp. Ravaisson cũng là người đã biểu dương phát triển cái phần mĩ thuật cổ điển trong triết học nước Pháp. Chính ông này đã xướng lên một cái triết học riêng lấy bằng phàm sự vật càng đẹp bao nhiêu càng gần với chân lý bấy nhiêu, thật là tổ thuật cái tư tưởng mĩ thuật của người Hi-lạp đời xưa.

Đọc đến tên ông Ravaisson, không thể quên được tên ông Lachelier; ông cũng là một nhà tư tưởng trứ danh, có ảnh hưởng trong thế kỷ thứ 19. Giữa hồi Victor Cousin (1792-1867) xướng chủ nghĩa triết trung (éclectisme), muốn điều hòa các phái mà làm cho ngưng trệ cái nguồn tư tưởng của nước pháp trong mấy mươi năm, nhờ có ông xuất hiện ra mà đánh thức cái hồn triết học ở các học đường trong nước. Bài luận văn tiến sĩ của ông đề là “Bàn về căn bản của phép qui nạp” (Sur le fondement de l’induction), thực là một bộ sách tuyệt tác. Học thuyết của ông tuy xưng là kế thừa ông Kant, nhưng thực ra ngoài “duy tâm luận” (idéalisme) của Kant, còn mở đường cho một “thực thể luận” (réalisme) lối mới, hơi giống như “bản thể luận” của Maine de Brian. Lachelier lại là một nhà dạy học có tài; đã lấy tư tưởng cao mà rèn đúc được bao nhiêu học trò, nhờ ông sau này nổi tiếng cũng nhiều.

Boutroux thời xướng ra cái thuyết rằng phàm người ta gọi là “phép của tạo vật” ấy cũng thuộc về “tương đối” mà thôi (contingence des lois de la nature), không có tính cách tuyệt đối, nghĩa là không phải nhất định, tùy sự ngẫu nhiên mà thay đổi. Một nhà số học đại danh là Henri Poincaré tuy thuyết minh ra cách khác mà cũng kết luận như vậy. Ông nói rằng thần trí ta cứ muốn đặt phép tắc cho vũ trụ, nhưng mà chính ta, chính cái học của ta cũng không theo được phép tắc ấy, vì chính ta, chính cái học của ta đều không có tính cách gì tuyệt đối nhất định cả. Trong phái này còn có Milhaud, Edouard le Roy nữa. Học thuyết của Edouard le Roy có khuynh hướng về đạo đức tôn giáo.

Đến như Liard thì muốn điều hòa cái học siêu hình với cái học thực nghiệm khiến cho tư tưởng người ta được quân bình. Fouillée cũng theo một tôn chỉ như thế. Ông là nhà tâm lý học, xã hội học, lại vừa là nhà luận lý có tài, đã từng xướng ra một cái thuyết gợi là “ý lực thuyết” (théorie des idées forces), lấy rằng phàm lý tưởng thâm thiết đều tự nó có sức mạnh thực hành ra được. Sự học của ông rộng lắm, không có một vấn đề nào thuộc về lý tưởng hay thuộc về thực tế mà ông không từng xét đến, phát minh được nhiều ý kiến mới lạ. Học trò ông là Guyau lại là một nhà tư tưởng đại tài. Guyau lập thuyết rằng người ta phải phát triển cái sức sinh hoạt trong người cho cực hoàn toàn, thời tự nhiên đến được cõi tuyệt phẩm trong đạo lý.

Mấy nhà ấy là những nhà triết học cận thời. Nay gọi là kể qua mà thôi, không thể nói về mỗi nhà cho tường tận được. Trong thế kỷ thứ 19 còn hai nhà trứ danh nữa chưa kịp nói đến là Renouvier và Cournot.

Renouvier thời khởi điểm tự chủ nghĩa phê phán (criticisme) của Kant, rồi tiến lên mãi mà kết luận đến nghĩa tự do, dựng ra một nền luân lý rất có ảnh hưởng đến tư tưởng đương thời.

Cournot thì bắt đầu tự số học, rồi đặt ra một chủ nghĩa phê phán lối mới, khác với Kant vì lối này vừa xét cả hình, và xét cả chất của trí thức, nghĩa là cả phương phép, cả kết quả của sự học nữa. Nhờ chủ nghĩa phê phán ấy mà ông đã phát minh ra được nhiều tư tưởng mới lạ sâu sắc, thực có thể liệt vào bậc các nhà triết học đại danh đời nay.

Sau hết cũng nên nói mấy lời về triết học của tác giả bài này (tức là ông Bergson). Tác giả có soạn sách “Sáng tạo đích tiến hóa luận” (l' Evolution créatrice) muốn đem siêu hình học vào trường thực nghiệm, vừa dùng thực học vừa dùng ý thức, vừa dùng cái sức trực giác (intuition) của người ta để mong dựng nên một nền triết học mới, có thể 1ý hội được vừa các 1ý tưởng phổ thông, vừa những sự là thực đặc biệt. Triết học mà được như thế thì cũng đích xác bằng khoa học, chẳng kém gì; cũng mỗi ngày một tiến lên như khoa học, mỗi ngày thêm những kết quả mới vào kết quả cũ đã tính. Nhưng triết học ấy còn có một mục đích nữa, bởi đó mà phân biệt với khoa học, là muốn cho trí biết người ra mỗi ngày một rộng thêm ra, phá cả lề lối khuôn phép sẵn mà khuếch trương mãi ra, khiến cho tư tưởng người ta có thể bồng bột đến vô cùng.

IV

Nay đã lược thuật các nhà triết học pháp, cốt tiêu biểu là phần mới lạ trong học thuyết của mỗi nhà, cho biết mỗi người đã cống hiến cho cái công tư tưởng chung của nhân loại được những gì. Bây giờ lại thử xét xem các nhà ấy có những tính cách gì giống nhau, những tính cách ấy gồm lại tức là phần đặc sắc của triết học nước Pháp.

Tính cách rõ rệt hơn cả là đọc sách vở các nhà ấy thấy lối văn thật giản dị. Trừ về nửa sau thế kỷ thứ 19, trong một khoảng hai ba mươi năm, có mấy nhà triết học chịu ảnh hưởng ở ngoài, dùng một lối văn kỳ khu trắc trở, thực là trái với đặc tính sáng sủa của quốc văn, còn thì suốt triết học nước Pháp từ xưa đến nay vẫn lấy một điều này làm tôn chỉ, là không có một lý tưởng nào, dù sâu sắc, dù nhiệm màu đến đâu mà lại không thể đem ra diễn bằng lời nói thường của mọi người được. Nhà triết học Pháp không phải chỉ làm sách cho một hạng chuyên môn xem: thực là muốn nói cho cả mọi người đều hiểu. Muốn thấu triệt căn để tư tưởng của các bậc ấy, cố nhiên phải là nhà triết học, tay bác học mới được; nhưng muốn đọc được những sách cốt yếu của các bậc ấy để lấy bổ ích cho tư tuởng riêng của mình, thì phàm người học thức là có thể hiểu được. Mỗi khi các bậc ấy phải dùng lời văn mới để diễn tư tưởng mới, thì không như ở các nước khác đặt ra những danh từ riêng, cách đặt chữ mới ấy chẳng qua là dùng những tiếng còn sống sượng để chỉ những tư tưởng còn mập mờ, nhưng lấy những tiếng thông thường mà khéo xếp đặt thành ra nghĩa mới, khá diễn được những tư tưởng thâm trầm huyền diệu. Bởi thế mà nhưng danh gia như Descartes, Pascal, Rousseau kể đại khái mấy nhà đó thôi dù nghiên cứu lý tưởng (như Descartes), hay dù dào dạt cảm tình (như Pascal, Rousseau), thực đã có công to với quốc văn, giúp cho tiếng Pháp được thêm sắc xảo mạnh mẽ ra. Vì một tư tưởng nẩy ra trong trí não tất phải phân tích ra cực tinh vi, mới có thể phô diễn ra bằng lời nói được. Các nhà triết học Pháp, kẻ ít người nhiều, đều có tư cách riêng biết phân tích tư tưởng như thế cả.

Tư cách ấy cũng tức là một đặc tính của triết học pháp từ xưa đến nay.

Những lời văn mới là hình thể ở ngoài, xét đến cốt cách ở trong thì thấy triết học Pháp còn có những đặc tính khác nữa như sau này:

- Trước hết triết học Pháp bao giờ cũng có quan hệ mật thiết với các khoa học thực nghiệm. Ở các nước khác thi thảng hoặc có nhà triết học kiêm khoa học, hay nhà khoa học kiêm triết học, nhưng những người như thế, thực là ít lắm, họa may mới có một đôi người, như ở nước Đức, tuy có ông Leibniz vừa là nhà đại triết học vừa là nhà số học có tài, nhưng xét ra sự tiến hóa của triết học Đức trong tiền bán thế kỷ thứ 19 không có quan hệ gì với các khoa học thực nghiệm khác. Triết học nước Pháp thì không thế; triết học với khoa học vẫn là liên tiếp với nhau, nương tựa lẫn nhau. Như trong học thuyết của Descartes, phần triết học với phần số học thực đã hóa hợp với nhau, khó phân biệt được kỷ hà học của ông là bởi siêu hình học mà ra, hay là siêu hình học của ông là bởi kỷ hà học mà ra, Pascal thì nguyên là nhà số học tuyệt luân, nhà lý học đại tài, rồi mới thành nhà triết học lỗi lạc. Triết học Pháp về thế kỷ thứ 18 phần nhiều là châu tuần trong phạm vi số học, lý học, y học (như d’Alembert, La Mettrie, Bonnet, Cabanis, v.v...) Về thế kỷ thứ 19, mấy nhà đại tư tưởng như Auguste Comte, Cournot, Benouvier v.v... cũng là xuất thân số học rồi mới đến triết học. Henri Poincaré thì thực là một tay số học tuyệt luân. Lại Claude Bernard đã dựng ra triết học về phép thực nghiệm chính là người sáng lập ra khoa sinh lý học. Đến những nhà triết học trong thế kỷ mới rồi, chỉ chuyên quan sát về nội tâm người ta, cũng thấy thường tham bác các khoa thực học khác, như sinh lý học, thần kinh bệnh học v.v... để chứng nghiệm không phải học những sự huyền ảo vô bằng. Maine de Biran là người khởi xướng ra phép nội quan cũng thấy chuộng thực học như thế. Nói rút lại thì ở nước Pháp triết học với khoa học rất có liên lạc với nhau, đó là một sự thường từ xưa đến nay; tức cũng lại là một đặc tính của triết học Pháp.

- Còn một tính cách nữa, tuy không phải riêng cho triết học nước Pháp, nhưng rõ ràng hiển nhiên hơn ở các nước, là tính chuộng tâm lý học, ưa quan sát về nội tâm người ta. Một tính đó, chắc chưa đủ tiêu biểu được học thống nước Pháp, vì cái tư cách biết tự cứu xét tâm tính mình, rồi nhân cứu xét tâm tính người, thì người Anh người Mỹ cũng có bằng người Pháp, nhưng ví so sánh với các nhà triết học Đức, thì thấy các nhà ấy, dù những danh gia (như Leibniz, Kant), cũng chưa từng thấy sở trường về tâm lý, họa chỉ là trừ một Schopenhauer là nhà thuần lý học mà có kiêm cả tâm lý học nữa. Đến như các nhà triết học Pháp, thì không có một bậc đại danh nào là không tỏ tường về khoa tâm lý. Chẳng cần phải nói ai cũng biết trong sách Descartes, Malebranche có lắm đoạn nghiên cứu về tâm lý rất tinh vi, xen lẫn với những đoạn thuyết lý về siêu hình rất màu nhiệm. Lại xem như Pascal, dù nghiên cứu về vật lý số học, triết học, hay quan sát những chốn u ẩn trong tâm tính người ta, cũng là sáng suốt mà sâu sắc cả. Con dillac thì vừa là nhà luân lý học, vừa là nhà tâm lý học. Đến những bậc như Rousseau, Maine de Biran thì đã là những tay phá thiên hoang về tâm lý, sáng tạo ra các phương pháp nội quan. Suốt thế kỷ thứ 17, 18, cái công của triết học Pháp cứu xét về nội tâm người ta, thực là mở đường sẵn cho các khoa tâm lý thực nghiệm về thế kỷ thứ 19 sau này. Đến thế kỷ ấy nữa, những nhà có công gây dựng ra các khoa ấy cũng là người Pháp cả (như Moreau de Tours, Charcot, Ribot). Vả phương pháp của các nhà ấy, chính nhờ phương pháp ấy, tâm lý học đời nay mới phát minh được nhiều điều quan trọng cũng là do phép nội quan của các tiền triết suy rộng ra mà thôi. Vì phàm tâm lý học bao giờ cũng phải dùng đến “ý thức” là cái trí biết của người ta, nhưng tâm lý học ngày nay khác xưa là không những xét người ta khi bình thường mạnh khỏe, mà xét cả trong khi bệnh trạng nữa, để biết cái tâm lý lúc biến, lúc thường thế nào.

Đó là hai đặc tính cốt yếu của triết học nước Pháp.

Hai đặc tính ấy điều hòa với nhau mà gây cho triết học Pháp một cái hình dung riêng. Nhờ đó mà triết học Pháp thu gồm được cả cái chân tướng bề ngoài là chân tướng của vật lý học cùng cái chân tướng bề trong là chân tướng của tâm lý học. Cũng bởi đó mà triết học Pháp không ưa kết cấu tư tưởng thành “hệ thống” cho chủ nghĩa độc đoán cùng chủ nghĩa phê bình của triết học Đức là những lý thuyết sai lầm quá đáng cả. Không phải rằng người pháp không có tài kết cấu khéo. Nhưng các nhà triết học Pháp dường như tự nghĩ rằng cái công tổ chức học thuyết thành hệ thống không có gì, vì lấy một lý tưởng suy cho đến cùng tưởng cũng dễ lắm, khó ấy là biết suy đến đâu là nên thôi, đi đến đâu là nên rẽ, mà biết thế thì tất phải nghiên cứu sâu các khoa thực học, tiếp xúc luôn với cõi thực tế mới có thể được. Pascal đã từng nói người ta có một cái “trí khúc triết” (esprit géomestrique) không đủ, nhà triết học phải có thêm cái “trí tinh nhuệ” (esprit de finesse) nữa mới được. Descartes là nhà siêu hình học lỗi lạc như vậy cũng tự nói bình sinh không có để tâm chuyên trị về siêu hình học, là có ý nói không có dụng tâm về việc tổ chức, kết cấu trong lý tưởng, việc ấy là tự nhiên nó thành, hoặc giả nói: triết học mà không dựng thành “hệ thống” thì chẳng phải là sai mục đích ư? Vì mục đích của triết học tức là bao gồm, thống nhất cả sự thực.

- Xin đáp rằng: triết học bao giờ cũng chủ sự thống nhất. Duy chỉ không nên dùng lối thường, là cái lối lấy một lý tưởng tiêu biểu lên, làm như cái khung cái khuôn, rồi miễn cuỡng thu cả sự vật vào trong đó, gọi thế là một hệ là thống, không biết rằng mình lấy lý tưởng ấy, người ta cũng có thể lấy 1ý tuởng khác đối lại được, mà cứ dùng cách đó cũng dựng thành một học thuyết có hệ thống chẳng kém gì; hai học thuyết có thể đem ra đối nhau vô cùng, khó phân biệt được phải trái, vì không bằng cứ vào đâu mà kiểm điểm được. Như vậy thì triết học thành một trò du hí, một cuộc không đàm, một đám những nhà thuyết lý ngồi cãi xuông với nhau, không bổ ích gì. Lại phải biết rằng lý tưởng là một phần tử của trí thức người ta, mà trí thức người ta cũng lại là một phần tử của toàn thể vũ trụ; lấy một bộ phận của một bộ phận, gồm sao được toàn thể sự vật? Thống nhất sự vật là một việc khó khăn, lâu dài và phiền phức: trí tư tưởng của người ta không phải là đem chân tướng mà rút lại cho vừa khuôn một lý tưởng riêng của mình, nhưng phải tự khuếch trương ra cho mỗi ngày gồm được một phần to hơn trong chân tướng. Nhưng muốn được thế, phải công phu tích lũy trong mấy mươi đời. Hiện nay, chức vụ của mỗi nhà triết học là phải gây lấy một quan niệm về vạn vật ; trong quan niệm ấy, có thể đúng được một vài phần, còn ngoại giả là tạm thời giả thiết cả mà thôi. Quan niệm đó muốn gọi là một “hệ thống” cũng được, nhưng nguyên tắc của nó không thể nhất định được, phải là một nguyên tắc nhất định, phải là một nguyên tắc uyển chuyển, có thể khuếch trương đến vô cùng được. Thiết tưởng tôn chỉ của triết học Pháp là thế. Tôn chỉ ấy mãi đến sau này mới công nhiên phát biểu ra. Nhưng sở dĩ xuất hiện chậm thế, chính là bởi có mật thiết với tinh thần nước Pháp, mà tinh thần nước Pháp thì vốn uyển chuyển hoạt động, không có tính cách cứng cỏi như cái máy vô hồn; tinh thần ấy lại có tính “vị tha” nữa, không ưa những công cuộc kết cấu riêng của từng người mà chỉ vị công lý công nghĩa cả loài người.

Bởi mấy tính cách vừa kể đó mà triết học Pháp tự xưa đến nay vẫn có tài sáng nghĩ, sáng tạo ra tư tưởng mới. Bởi triết học Pháp xưa nay bao giờ cũng dùng lời nói thường của mọi người, nên không thành ra như cái độc quyền của một phái chuyên môn ; người thường ai cũng có thể kiểm xét, nên không thể cách tuyệt với cái tri thức thông thường trong xã hội. Nhà triết học lại thường là nhà tâm lý, sinh lý, vật lý, số học, nên triết học vẫn liên tiếp với thực học, mà không cách biệt với việc đời. Vì không xa cách với việc đời, thường liên tiếp với thực học không cách tuyệt với tri thức thông thường, nên triết học ấy thường được dồi dào phong phú; cũng vì thế mà khỏi thành một món không đàm cho các cao sĩ lấy lý tưởng siêu hình mà kết cấu lại thế giới hữu hình. Nhưng nếu triết học Pháp đã tẩm thấm tinh thần nước Pháp mà sinh hoạt được thì chẳng là tinh thần ấy cũng có khuynh hướng riêng về đường triết lý dư? Thực thế, ở nước Pháp, không có mấy nhà bác học, nhà văn học, nhà mỹ thuật là chỉ chăm chăm về phần hình thức của nghề mình, không biết quan niệm về nghề ấy để lập thành một “triết học” riêng của mình. Cử quốc đều có tính ham chuộng triết lý: phàm nghị luận việc gì, dù việc buôn bán nữa, cũng bàn cao lên đến nguyên lý nguyên tắc của nó. Cái tính hiếu triết học đó thực là tiêu biểu cho tính tình cao thượng của người Pháp, chỉ ưa những nghĩa lý công minh chính đại ở đời. Như vậy thì hồn nước Pháp với hồn triết học tất có thanh khí với nhau, không phải không.

(Dịch theo Pháp văn của H. Bergson 1918)

(1) Người ta thường tự cao tưởng rằng lấy lý tính của mình mà quán thông được cả sự vật, không biết rằng tạo vật cũng có lý của tạo vật, có cần gì đến cái lý của người ta. Người ta phải tùy theo sự thực của tạo vật, tạo vật chưa từng tuỳ theo tư tưởng của người ta bao giờ. Nên các nhà thực học không thể dự tưởng về sự vật, chỉ đợi cho sự vật phát hiện rồi nhân đấy mà suy diễn ra thôi. Lấy lý suy mà nói rằng trời tròn hay trời vuông thì trời đất có hề chi, trời đất không có bao giờ theo ý của ta mà đường tròn hóa ra vuông, đường vuông hóa ra tròn được. Cho nên nói người với lý trời không giống nhau là thế. Người ta cho lý của mình phải là khi nào nó tiện cho mình đó mà thôi.
 
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?