Triết học Mác với chủ nghĩa duy vật nhân văn (P.2)
II- Đối với chúng ta ngày nay vấn đề là phải phát triển triết
học Mác
Vấn đề mà chúng ta cần quan tâm trong lịch sử nhận thức mác
xít, là chủ nghĩa Mác cũng bị hiểu một cách giáo điều, bị tuỵệt đối hóa, nâng
lên như những giáo lý. Nhưng bên cạnh tư tưởng tự cao tự đại, giáo điều đó thi
vẫn có tư tưởng qua tự ti và nhận thức không đúng.. Cả hai loại tư tưởng ấy đề
ngăn cản sự phát triển chủ nghĩa Mác và triết học Mác.
Nhiều người có nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa Mác
như: cái gì cũng cho rằng, Mác và Lênin đã nói cả rồi, chỉ vận dụng về chi tiết
thôi. Đó là một cách hạn chế chính mình và không đúng với tinh thần sáng tạo của
chủ nghĩa Mác, tức là rơi vào sự tuyệt đối hóa kiểu Hêghen- chủ nghĩa Hêghen
như là đỉnh cao nhất của triết học, không có triết học nào có thể vượt qua được.
Hoặc cho rằng, chủ nghĩa Mác là đĩnh cao nhất của nhận thức nhân loại và duy nhất
đúng. Hồ Chí Minh khi nói về chủ nghĩa Mác -Lênin cũng chỉ nói là "đúng đắn
nhất, cách mạng nhất" chứ không dùng từ duy nhất. Hoặc nếu có phát triển
thì phải chờ một thiên tài như Mác hay Lênin hay như Hồ Chí Minh mới phát triển
được chủ nghĩa Mác, còn những nhà nghiên cứu bé nhỏ như chúng ta chỉ là giải
thích hay vận dụng nào đó đối với chủ ghĩa Mác mà thôi.
Thực ra, dù chủ nghĩa Mác có nội dung toàn diện, một triết học
toàn diện, triết để đề cập nhiều vấn đề nhưng có vấn đề chỉ nói qua, họặc chưa
nói tới, chưa nghiên cứu được, hoặc thậm chỉ mới thấy một mặt. Chủ nghĩa Mác chỉ
tập trung vào một số hướng chính sâu (nhất là mặt kinh tế và chính trị, hay triết
học về xã hội, quy luật cơ bản của phép biện chứng). Khá nhiều vấn đề mới nói
qua, nêu ra mà chưa nghiên cứu, chứng minh. Hơn nữa với sự phát triển này nay
thì không thể nói chủ nghĩa Mác đã dự báo hay phân tích hết được, không thể lấy
ông Mác thay cho toàn bộ trí tuệ nhân loại trước Mác và sau Mác. Chính Lênin có
nói rằng, một ông Mác chứ 70 ông Mác cũng không thể nói hộ hết chúng ta, không
có đáp số có sẵn cho các tình huống lịch sử.
Tuyệt đối hóa (sùng bái), hay hạ thấp chủ nghĩa Mác cũng đều
sai lầm như nhau.
Chúng ta trung thành sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác nhưng
không thể sùng bái nó như tôn giáo, hoặc như một chân lý tuyệt đối kiểu Hêghen,
rằng phép biện chứng đến Hêghen là tối cao, tột đỉnh, không ai phát triển được
nữa… Không thể vì phải ohống lại quan điểm hạ thấp hơặc bác bỏ chủ nghĩa Mác mà
ta lại sang một cực khác, sùng bái, tuyệt đối hóa chủ nghĩa Mác. Bệnh sùng bái
này thực tế cũng sinh ra không ít tai họa.
Thực tế là sau này về mặt khoa học đã có nhiều lý luận bổ
sung và phát triển mới thật không sao kể hết, như học thuyết về vô thức, về xã
hội học, tâm lý học, văn hóa học…và nhất là học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong thời kỳ đổi mới. Một học thuyết, một chủ nghĩa mà không phát triển được,
không phân hóa bộ môn được, không đáp ứng được thực tiễn thì sẽ xơ cứng và chết.
- Angghen cho rằng, chủ nghĩa xã hội cũng như các chế độ xã
hội khác cần biến đổi, cảí tạo thường xuyên, không ngừng.( (Mác- Ăngghen, tuyển
tập, tập VI, Nxb.Sự thật, Hà Nội,1984, tr.757). Theo chúng tôi, điều này phải
hiểu rộng ra là xét cả măt lý luận và hiện thực. Đảng cần có "một khoa học
xã hội chủ nghĩa". Nhưng "khoa học xã hội chủ nghĩa không thể có được
nều không tự do phát triển" (Mác- Ăngghen, tuyển tập, tập VI, Nxb.Sự thật,
Hà Nội,1984, tr.754-757) .
- Ngày nay ta thấy một trong những điểm mà sau thời kỳ khủng
hỏang và tiến hành đổi mới mới thay đổi được là quan điểm phát triển kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, văn hóa và phát
triển trong thời đại mới…
- Hơn nữa, ngày nay theo tinh thần của Ang nghen, chúng tôi
nghĩ rằng về mặt triết học cũng cần phải phát triển. Chứ không phải triết học
là thế thôi, không còn gì phát triển nữa như khá nhiều người vẫn hiểu như vậy.
Như trên đây đã nói, mỗi lần có một bước ngoặt trong khoa học
tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật sẽ thay đổi hình thức của mình; đồng thời, chính
thực tiễn cách mạng là động lực của lý luận đã điều chỉnh và kiểm nghiệm lý luận,
cũng như gợi mở những kết luận mới, những học thuyết mới…
Với thời đại kinh tế tri thức, thời đại trí tuệ hóa, thời đại
của xã hội thông tin, xã hội sinh thái và toàn cầu hóa, thời đại của chủ nghĩa
xã hội đổi mới thì triết học chẳng lẽ vẫn như cũ, bằng lòng với triết học đại
cương tổng thể như trong giáo trình hiện nay? Có lẽ chúng ta không biết gì về vận
động, phát triển của triết học thế giới ngoài mác xít, với gần 170 chuyên ngành
triết học cụ thể? Còn thế giới khoa học thì với 20 nhóm mà nhòm đầu là khoa học
phi bộ môn, rồi khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng và thứ 20 là các khoa học về
khoa học luận ứng dụng. Đó là chưa kể tri thức ngoài khoa học. Trong khi đó vai
trò của triết học là "tổng hợp lý thuyết", và "tổng quát toàn bộ
tri thức" ở tầm bản chất phổ quát.
Chúng ta không nên tuyệt đối hóa (sùng bái) triết học Mác và
bỏ ngoài tai thành tự triết học của nhân loại và của thời kỳ mới ngày nay, dù
là ngoài mác xít, thậm chí phi mácxít. Và phải chăng người Việt Nam chỉ là thuyết
minh, vận dụng, ăn theo như có người quan niệm?
Mới đây, ngày 21 và 22-11-2005, tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc
hộu thảo quốc tế, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với UNESCO tại Việt
Nam và Hội Giáo dục triết học vì dân chủ khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, với nội
dung, toàn cầu hóa- những vấn đề triết học khu vực châu Á (mà bản thân tác giả
bài viết này có tham dự).
Có nhiều vấn đề đặt ra ra thú vị. Nhân dịp này xin nói về một
vấn đề là nhiều đại biểu trong và ngoài nước, nêu lên yêu cầu phát triển và xây
dựng một nền triết học đương đại ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương, trong đó
đáng chú ý là ở V iệt Nam.
Người ta cho rằng Việt Nam ta anh hùng, thông minh thế lẽ
nào trong lịch sử không có triết học và nhất là ngày nay với nhiệm vụ mới trong
bối cảnh toàn cầu hóa lại quá lệ thuộc vào các học thuyết cách ngày nay quá xa,
rằng phải tìm lấy lối riêng cho mình và triết lý riêng, triết học riêng. Thời đại
toàn cầu hóa phải có một sự phát triển triết học tương ứng.
Về triết học của toàn cầu hóa thì chúng ta thấy có quan niệm,
lý thuyết khác nhau. Lý thuyết xung đột các nền văn minh của S. Huntington; lý
luận của V.E. Đavi Đôvích về chủ nghĩa nhân đạo và triết học nhân học (trong cuốn
Dưới lăng kinh triết học, Nxb.CTQG, 2002, của V.E. Đaviđôvich); thuyết Hòa hợp
học của nhà triết học Trung Quốc (Trương Lập Văn). Trong các lý thuyêt đó thì
nhìn chung nên nghiên cứu tham khảo, tiếp thu một cách thích hợ, nhưng riêng
thuyết xung đột các nền văn minh thì cần phê phán là chính.
Các lý thuyết, nhất là chủ nghĩa nhân đạo và triết học nhân
học, thuyết hòa hợp học đã chú ý phân tích những vấn đề nhân loại và cách giải
quyết khủng khoảng nhân loại ngày nay. Về những khó khăn, những cuộc khủng hoảng,
những nguy cơ mà nhân loại sẽ cùng đối mặt trong thế kỷ XXI, có 5 cuộc khủng hoảng
lớn nhất là: sự ô nhiễm môi trường sinh thái - thể hiện của tình trạng xung đột
giữa con người với tự nhiên; những khủng hoảng trong xã hội - thể hiện của tình
trạng xung đột giữa con người với xã hội; sự suy đồi về đạo đức - thể hiện của
tình trạng xung độ giữa con người với con người; sự khủng hoảng về tinh thần -
thể hiện tình trạng xung đột giữa con người với thế giới tâm linh; những khủng
hoảng về giá trị - thể hiện của tình trạng “xung đột giữa các nền văn minh”
khác nhau đều trực tiếp có quan hệ đến sự sống và lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi
dân tộc.
Đối mặt với 5 cuộc khủng hoảng to lớn đó, tuy không thể xây
dựng nên một giá trị tư tưởng, một hệ thống đạo đức luân lí chung cho toàn thể
nhân loại nhưng chúng ta cũng có thể xác lập một số qui tắc, nguyên tắc và quan
niệm giá trị chung tối thiểu nhất cho một số dân tộc, quốc gia .
- "Hòa hợp" là tổng hòa của các trạng thái xung đột
lẫn nhau, đan xen nhau, hòa quyện nhau của các sự vật hiện tượng cụ thể hoặc trừu
tượng (ở đây là chỉ giới tự nhiên, xã hội, quan hệ người - người, thế giới tâm
linh và các nền văn minh) cùng với sự hợp thành một phương thức mới, một sự vật
mới, một đời sống mới của chính các sự vật hiện tượng đó trong quá trình biến đổi
của xung đột, hòa hợp . Ý ẩn của "hòa hợp học" có thể phân chia
thành: nhiên và sở dĩ nhiên, thay đổi và hình thức, phổ thông và siêu việt, đối
xứng và hợp thể, trung hòa và thẩm mỹ. Nghĩa ẩn của "hòa hợp" và
nguyên tắc của tinh thần nhân văn hòa hợp kết hợp với nhau, đồng thời, thông
qua quy luật bổ sung ngang dọc, quy luật thông suốt của chính thể, luật đối xứng
hỗn độn để đạt đến khung cảnh của hòa hợp.
- Mọi người có thể vận dụng lý thuyết hòa hợp để xem xét về
5 xung đột và khủng hoảng lớn mà nhân loại sẽ phải đối mặt trong thế kỷ XXI, đồng
thời, thông qua những nhận thức chung tối thiểu nhất để đạt được 5 nguyên lý
sau:
1- Nguyên lý "hòa sinh" (nguyên lý sinh tồn hòa hợp),
tức là cùng sinh tồn, cùng vinh hoa, cùng phú quý của câu "thiên địa chi đại
đức viết sinh" (Cái đức lớn lao của trời đất là hiếu sinh) đã được nâng
lên thành ý thức hòa sinh, hòa vinh, hòa phú.
2- Nguyên lý "hòa xử" (nguyên lý chung sống hòa hợp),
tức là cùng chung sống "có hòa hợp nhưng không hòa tan", cùng chung sống
tuy có xung đột và cạnh tranh những tất phải sống cùng nhau.
3- Nguyên lý "hòa lập", tức là "kỷ dục lập
nhi lập nhân" (mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác cùng lập), tôn
trọng phương thức sinh tồn và các cách phát triển đa dạng khác nhau.
4- Nguyên lý "hòa đạt", tức là "kỷ dục đạt
nhi đạt nhân" (mình muốn thành đạt thì giúp cho người khác thành đạt).
Theo nguyên lý này thì mình thành thành đạt, mình đạt được điều mình mong muốn
thì người khác cũng phải đạt được cái họ mong muốn, chứ không thể nào mình đạt
được mà lại không cho người khác cùng đạt, thậm chí hạn chế, cản trở sự phát
triển của quốc gia khác, dân tộc khác. Chỉ khi nào toàn thể nhân loại cùng phát
triển thì con người mới được yên ổn.
5- Nguyên lý "hòa ái", đã "cùng sinh tồn
trong hòa hợp" thì thường mong đạt được "sự chung sống hòa hợp",
chung sống hòa hợp thì cầu đạt được "hòa lập, hòa đạt", cơ sở và xuất
phát điểm của 4 nguyên lý trên là "hòa ái". Chỉ có "phiếm ái
chúng" (yêu thương tất cả mọi người), "kiêm tương ái" mới có thể
thực hiện được hòa sinh, hòa xử, hòa lập, hòa đạt.
Năm nguyên lý nêu trên là những nguyên lý và giá trị quan trọng
nhất của xã hội loài người trong thế kỷ XXI.
Vấn đề phát triển ngày nay, khoa học đã làm rõ ràng, không
chỉ thấy một mặt ở tình quyết định luận mà cần thấy cả mặt hỗn độn, mặt bất định.
Và ngay khi nghiên cứu tính phát triển của hệ thống kinh tế, văn hóa, xã hội
thì phải có tầm nhìn mới chứ không phải chỉ dừng lại kiểu hệ thống sinh học hay
hệ thống cơ giới, như vẫn thường thấy ở không ít nhà khoa học. Có nhiều vấn đề
đang đặt ra về mặt triết học phải có tư duy mới. Chúng ta phải đổi mới tư duy
triết học.
Chúng tôi nghĩ rằng, trong bối cảnh đó, Việt Nam chúng ta cần
phải phát triển và xây dựng triết lý, triết học mới trên nền tảng triết học Mác
và tư tưởng Hồ Chí Minh.:
- Cần phát triển tư tưởng triết học về con người, về nhân loại
xây dựng thành thành chủ nghĩa duy vật nhân văn (triết học nhân văn mới), như
hình thái mới của chủ nghĩa duy vật trong thời đại ngày nay. Quan niệm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử không đi sâu nghiên cứu vấn đề con người. Trong khi đó vấ
đề này rất phong phú trong lịch sử triết học và trong thời đại ngày nay có nhiều
vấn đề mới cần nghiên cứu, tiếp cận và khái quát mới. .
- Nghiên cứu những vấn đề phát triển đương đại, xây dựng
thành chuyên ngành triết học phát triển . Trên bình diện này, chúng ta không chỉ
dừng lại cách tiếp cận Triết lý phát triển ở Việt Nam như một chương trình
nghiên cứu quốc gia thời kỳ 1995-2000, mới công bố thành sách, mà theo chúng
tôi hiểu, phải là triết học phát triển . Phải chăng ở đây chúng ta rất khiêm tốn
hay chưa thấy cần một cách nhìn của triết học phát triển . Trên thế giới cũng
có công trình nghiên cứu "Triết học trong phát triển", do UNESCO đặt
hàng viết (theo cố GS. Nguyễn Hoàng Phong).
- Nghiên cứu sâu về cả vô thức, trực giác, sự phản ánh của ý
thức dưới ánh sáng khoa học hiện đại, nghiên cứu tư tưởng nhận thức luận chiều
sâu, xây dựng nhận thức luận duy vật nhân văn, nhận thức luận chiều sâu mới.
- Xây dựng phương pháp luận hòa hợp học hay hài hòa học. Ở
Trung Quốc hiện nay đã coi học thuyết hòa hợp học như một lý thuyết triết học mới
của thời cải cách mở cửa do họ sáng tạo nên. Theo chúng tôi, có thể coi đó là nội
dung cơ bản của phương pháp luận duy vật nhân văn.
- Nghiên cứu các chuyên ngành triết học chính trị, triết học
kinh tế, triết học giáo dục, triết học của khoa học công nghệ hiện đại, triết học
văn hóa, triết học sinh thái, triết học về trí tuệ triết học về toàn cầu hóa…
Do vậy, nghiên cứu Angghen và học tập ông là ở tinh thần
cách mạng, tinh thần phê phán và tự phê phán, tính thần phép biện chứng sáng tạo,
từ đó mạnh dạn phát triển lý luận triết học trong quan hệ với thực tiễn mới nhằm
làm rõ những vấn để mới của thời đai ngày nay, trên nền tảng của triết học Mác
và tinh hoa của dân tộc và nhân loại.
Phải xây dựng phương pháp tư duy hoc thuật, tư duy phát triển
lý luận và chống bệnh tự ti, từ đó góp phần nghiên cứu phát triển triết học Mác
trong thời đại ngày nay, từ đó tạo tầm nhìn sâu rộng cho quá trình xây dựng xã
hôi ngày càng hiện đại, thịnh vượng, công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
III- Nhận thức về thực chất của triết học Mác và sự phát triển
hiện nay
Lạc Chí Cường trong cuốn "Tìm hiểu hệ thống chủ nghĩa
duy vật thực tiễn", Quảng Đông Cao đẳng giáo dục xuất bản, 2000, Trung văn
(Trích theo PGS. Hà Thúc Minh. Trong một bài viết của cuốn sách Công tác tư tưởng
và giảng dạy lý luận trong trường đại học và cao đẳng hiện nay, Nxb.TPHCM,
2002, tr.41-55) , cho rằng nguyên nhân ở "chiều sâu nhất" của sự khủng
khoảng và sụp đổ ở Liên xô và Đông Âu trước đây là do "lý giải sai về
…..triết học". Ví dụ, cho rằng triết học Mác không phải là chủ nghĩa duy vật
lịch sử và duy vật biện chứng mà là duy vật thực tiễn; không phải là quan hệ giữa
vật chất và ý thức mà là quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và tự
nhiên; không phải tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại xã hội là có
trước, tính thứ nhất mà là tồn tại, xuất hiện "đồng thời"; hoặc Mác
không chỉ nói về năm hình thái kinh tế xã hội mà còn nói tới ba loại hình xã hội,
nói về hình thái xã hội nguyên sinh, thứ sinh và tái thứ sinh…Phải chăng khẳng
định này là đúng , là thuyết phục?
Tôi xin nói ngay ý tưởng và quan niệm về các hình thái và loại
hình kinh tế xã hội thì đúng. Còn nói về sự xuất hiện "đồng thời" giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội là không chính xác. Giải thích thế nào về ý thức
xã hội phản ánh tồn tại xã hội? Có xã hội, có nhà nước nhưng đâu phải ý thức
pháp luật có ngay? Hơn nữa khi nói ý thức xã hội là phân biệt với ý thức cá
nhân chứ không phải theo nghĩa ý thức của xã hội, thuộc về xã hội hay mang tính
xã hội, vì đó là cái chung của mọi ý thức kể cả ý thức cá nhân hay ý thức về tự
nhiên. Sự đồng thời giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là là một thực tế nhưng
là khi xem xét nó về cấu trúc hệ thống xã hội, còn về nguồn gốc thì ý thức xã hội
là hình ảnh của tồn tại xã hội thì làm sao lại "đồng thời" kiểu
"nhị nguyên luận" được.
Mà thực ra cũng không phải sự sụp đổ của Liên xô liên quan tới
sự lý giải vấn đề thuộc loại này.Vấn đề chỉ là không thấy hết tác hại, tác dụng
của ý thức xã hội tiêu cực của quá khứ đè nặng lên khối óc, trái tim người đang
sống làm méo mó chủ nghĩa Mác là chính. Rõ ràng là Đảng cộng sản đã tự tha hóa,
đã mất cảnh giác với mặt trái của truyền thống, tức quá khứ lạc hậu, tức với
chính mình; mất cảnh giác với chủ nghĩa cơ hội và mất cảnh giác với kẻ thù là
chủ nghĩa đế quốc. Ba mất này dẫn tới hai mất tiếp theo là mất Đảng và mất chế
độ. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở cuối bài.
Riêng về chủ nghĩa duy vật thực tiễn và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử thì xin thưa kỹ hơn như sau. Nhưng trước hết cũng phải
nói rằng là nhấn mạnh, làm nổi bật duy vật thực tiễn là đúng nhưng chia cắt với
duy vật biện chứng thì khó thuyết phục và chứng tỏ tư duy cực đoan, không hiểu
tính kế thừa và toàn diện triết học Mác. Thực ra điều này cũng đã từng nảy ra
cuộc tranh luận trước đây trong giới triết học Mácxit chứ không phải bây giờ mới
đặt ra.
Từ quan niệm của Lạc Chí Cường, hiện nay ở nước ta cũng có
quan niệm cho rằng, triết học Mác không phải là "chủ nghĩa duy vật biện chứng"
và "chủ nghĩa duy vật lịch sử". Bởi vì Mác chỉ gọi triết học mình là
"duy vật thực tiễn", "duy vật mới", hay như Ăngghen gọi là
"chủ nghĩa duy vật hiện đại". Phải chăng tính mới và hiện đại ở đây
chỉ là tính thực tiễn? Gọi triết học Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng là
cách gọi của Joseph Dietzge (1828-1888). Sau này cả Plêkhanôp, Lênin và Stalin
đều dùng khái niệm “chủ nghĩa duy vật biện chứng và và duy vật lịch sử” để gọi
triết học Mác. Ngay cả Ăngghen trong "Chống Đuyrinh" (Mác có đọc bản
thảo và bổ sung ý cho Ăngghen) cũng đã trình bày triết học Mác với ba quy luật
lớn của phép biện chứng, định nghĩa nó, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Dù khẳng định triết học Mác là chủ yếu duy vật thực tiễn, tức
là duy vật cũ chủ yếu là duy vật tự nhiên, trực quan, nghiên cứu con người như
một công dân, một cá nhân, một thân thể sản phẩm của tự nhiên, còn duy vật của
Mác là duy vật thực tiễn, đối tượng của nó nghiên cứu "xã hội loài người
hay loài người có tính xã hội", thì cũng không phủ nhận duy vật biện chứng
là triết học của Mác từ trong bản chất và tính hệ thống dù các ông chưa việt một
tác phẩm có hệ thống như kiểu giáo trình ngày nay..
Mác, trong khi bắt đầu phê phán Hêghen và Phơbách đã gọi triết
học mình là duy vật thực tiễn là vì: Hoàn cảnh lịch sử lúc đó, Hêghen coi thực
tiễn chỉ là hoạt động tinh thần, hoạt động chủ quan, triết học rơi vào chủ
nghĩa kinh viện; còn Phơbách thì thực tiễn là những nhu cầu của con người. Phơbách
coi triết học mới của mình là triết học hướng về thực tiễn, là "khoa học về
thực tiễn trong tính đầy đủ và toàn vẹn của nó, song tổng thể thực tiễn là tự
nhiên" (Tạp chí triết học, số 2-2003, tr.36) . Triết học của Phơbách, như
ông thừa nhận và quan niệm: "biến con người thành đôi tượng duy nhất, phổ
quát và cao nhất của triết học và do đó, biến thuyết nhân bản, trong đó có triết
học, thành khoa học phổ quát". Như thế ông đã kết hợp chủ nghĩa duy vật với
thuyết nhân bản = chủ nghĩa duy vận nhân bản. Nhưng khi giải thích lịch sử xã hội
lại rơi vào duy tâm. Đối với Mác thực tiễn là hoạt động khách quan, vật chất của
con người hiện thực. Và từ đây Mác sáng tạo ra duy vật lịch sử, với tư cách là
phép biện chứng của tiến hóa lịch sử, tức quan niệm duy vật thực tiễn và biện
chứng về quá trình lịch sử. Nhấn mạnh chữ "lịch sử "là nói tính quá
tình và tính cụ thể, còn nhấn mạnh chữ "thực tiễn" là nhấn mạnh sự hoạt
động của con người. Nói tắt duy vật lịch sử hay duy vật thực tiễn không phải phủ
nhận tính biện chứng, nội dung biện chứng của nó. Chính vì vậy có người ghép
thành "chủ nghĩa duy vật biện chứng lịch sử". Không nên quá bắt bẻ
khái niệm, tên gọi mà không hiểu tính lịch sử cụ thể của nó.
Nếu duy vật cũ chủ yếu là siêu hình (dù vẫn có duy vật biện
chứng thô sơ) thì duy vật mới là duy vật biện chứng. Angghen về sau rất nhấn mạnh
ý này. Và phép biện chứng của Mác khác phép biện chứng của Hêghen (biện chứng
nhưng duy tâm) là biện chứng duy vật. Chính Mác cũng tự so sánh này khi phê
phán phép biện chứng Hêghen "lộn đầu xuống đất". Đúng là Mác không
phát hiện ra chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng nói chung, trước Mác đã tồn tại
chủ nghĩa duy vật về thế giới và những qui luật biện chứng đã được Hêghen trình
bày khá toàn diện và sâu sắc dù mang tính duy tâm. Nhưng ông đã tiếp thu, cải tạo,
xây dựng lại cả chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, kết hợp, thống nhất lại
(chứ không phải lấy lại nguyên xi). Đúng là Mác có khẳng định điểm thiếu sót chủ
yếu triết học duy vật cũ là thiếu tính thực tiễn, không xuất phát từ thực tiễn
hiện thực, tức hoạt động của con người hiện thực. Nhưng chính Mác cũng có nói rằng
triết học Mác khác triết học Hêghen là ở chỗ hiểu và phát triển phép biện chứng
một cách duy vật. Mác không phải là người đầu tiên phát hiện ra phép biện chứng
nhưng hạt nhân biện chứng trong triết học cũ được các ông đang giá cao kể cả
Ăng ghen và Lênin sau này. Ăngghenbàn bổ sung phép biện chứng duy vật trong tự
nhiên, còn Mác chỉ bàn sâu về phép biện chứng xã hội, biện chứng lịch sử, dành
vị trí lớn cho Lịch sử (nhất là với bộ Tư bản). Mác thừa nhận quan niệm duy vật
về tự nhiên trước đó để tiếp tục nghiên cứu phép biện chứng lịch sử. Có lẽ sau
này, Lênin có nói "sự mở rộng" quan niệm duy vật biện chứng ấy vào
nghiên cứu xã hội là theo ý nghĩa ấy mà thôi chứ không phải Mác xây dựng xong
chủ nghĩa duy vật biện chứng (với cách hiểu sau này) rồi mới áp dụng vào lịch sử.
Với phát minh ra phép biện chứng duy vật và thực tiễn về xã hội thì chủ nghĩa
duy vật biện chứng về toàn bộ tự nhiên và xã hội mới hoàn chỉnh.
Lúc đầu Mác và Ăngghen không gọi triết học mình với cái tên
duy vật biện chứng vì phê phán phép siêu hình thì Hêghen đã hoàn thành mà phê
phán duy tâm thì Phơbách đã phê khá rõ. Nhưng Mác bước tiếp Phơbách tìm ra cái
thực tiễn và phép biện chứng xã hội, và sáng tạo ra phép biện chứng lịch sử thực
tiễn. Rồi ông cải tạo lại Hêghen về phép biện chứng và nhận thức luận. Đó cũng
là điều mà sau này Ăngghen và Lênin cùng nhiều nhà triết học khác tiếp tục. Có
thể còn phải nghiên cứu thêm những vấn đề cụ thể nhưng với ý nghĩa đó thì triết
học Mác cũng là triết học duy vật biện chứng, nói vậy không sai, mà rất đúng.
Chỉ có điều là phân biệt phần Mác phát kiến với việc ông cải tạo, tiếp thu, kế
thừa. Và khi trình bày thì phân biệt trình theo lịch sử triết học khác với theo
giáo trình kết cấu theo lôgích là chính và còn bao hàm sự bổ sung về sau với
cái nhìn hiện đại, cái nhìn kết tính của đỉnh cao triết học bao hàm trong đó
cái của người khác, thời đại khác trước đó và sau đó (chúng ta thấy rất rõ ở phần
duy vật biện chứng). Cho nên, có thể trình bày bắt đầu từ vật chất và ý thức
như tiền đề chung của mọi chủ nghĩa duy vật nhưng theo tinh thần mácxit (bao
hàm cả vấn đề thực tiễn khi giải thích về ý thức). Tất nhiên cũng có thể mở đầu
bằng vấn đề thực tiễn như tồn tại người và hoạt động sống của con người và vai
trò của nó đối với sự phát triển xã hội, cải tạo tự nhiên. Vấn đề thực tiễn, vấn
đề biện chứng, vấn đề duy vật và nhân văn phải quán xuyến ngay từ đầu và xuyên
suốt.
Cũng xin nói thêm là không chỉ bản thể luận không chỉ là vấn
đề liên quan tới duy vật hay duy tâm mà cả biện chứng hay siêu hình, vì bản chất
của hiện thực khách quan, vật chất vừa tồn tại khách quan vừa tồn tại biện chứng,
tức trong sự liên hệ và vận động- phát triển. Khi ta nói phải xuất phát từ thực
tế khách quan mới có nhận thức đúng đó là phương pháp luận và nhận thức luận chứ
không chỉ phải có quan điểm toàn diện mới là phương pháp luận hay nhận thức luận.
Và thực ra chủ nghĩa duy vật biện chứng như sách giáo khoa
trình bày hiện nay là tổng hợp cả ý kiến của Mác Ănghen. Lênin và các thế hệ
triết học mácxit sau này cũng như các thành tựu triết học trước Mác. Chính
Lênin đã phát triển sâu về vấn đề vật chất với tư cách một phạm trù triết học,
vấn đề nhận thức luận và phép biện chứng xã hội. Từ đó Ăngghen và Lênin đưa vào
triết học Mác. Với ý nghĩa đó triết học của các ông là duy vật biện chứng (cả về
tự nhiên, xã hội và về tư duy), là Lôgích viết hoa. Đó là nền tảng và linh hồn
của triết học Mác. Hay gọi cách khác đó là triết học đại cương của Mác (cấp độ
một). Tât nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác không phải là
triết học về tự nhiên, nhưng chưa đủ độ sâu về triết học xã hội.
Cái mới nhất, phát minh của Mác là duy vật lịch sử hay duy vật
thực tiễn, hoặc cũng gọi là triết học biện chứng xã hội. Phát minh của Mác là
quan niệm duy vật lịch sử, nhưng không chỉ duy vật mà cả phép biện chứng của lịch
sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử (gọi tắt là duy vật lịch sử)
là triết học cơ bản nhưng cấp độ (hai) sau duy vật biện chứng. Xuất phát tư duy
vật thực tiễn, hai ông mác và Ăng ngen đã xây dựng nên duy vật lịch sử và hoàn
thiện triết học mới. theo nghĩa hẹp thì triết học Mác là duy vật thực tiễn
(Mác), tức nhìn theo chiều ngang, hoạt động của con người trong quan hệt với tự
nhiên và xã hội; hay duy vật lịch sử (Ăngghen), nhìn theo lát cắt quá trình lịch
sử xã hội loài người với những quy luật của nó. Nhưng theo nghĩa rộng, nghĩa đã
hoàn chỉnh, phát triển về sau thì triết học Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử (hay phép biện chứng duy vật lịch sử) một khối thép không
tách rời như nhận xét của Lênin. Quá nhấn mạnh duy vật thực tiễn- khái quát đầu
tiên của Mác- mà quên phép biện chứng lịch sử, và sự cải tạp phép biện chứng
duy tâm thành phép biện chứng duy vật, từ đó cho rằng triết học Mác không phải
là, hoặc "càng không có lý do" để … gọi là "chủ nghĩa duy vật biện
chứng" (Công tác tư tưởng và giảng dạy lý luận trong trường đại học và cao
đẳng hiện nay, sdd, tr.48) , tức quá nhấn mạnh một mặt, lại tách rời khỏi cái tổng
thể và bản chất, là một sai lầm lớn và lại biến triết học Mác thành siêu hình.
Cách gọi chủ nghĩa duy vật thực tiễn hay duy vật lịch sử là gọi tắt chứ không
phải không có phép biện chứng. Mác và Ăngghen cũng như Lênin đánh giá cao thành
tựu của phép biện chứng Hêghen không phải để chiêm ngưỡng mà biến thành và phát
triển thành phép biện chứng của mình. Nghiên cứu lịch sử triết học cái chính là
để kế thừa và phát triển chứ không phát chính là lại bỏ và phê phán.
Theo Mác thì "cách tiếp cận duy vật thì đồng thời phải
là biện chứng." Và phép biện chứng duy vật là linh hồn của triết học Mác.
Điều này, một nhà mácxit người Anh - Maurice Cornforth - trong khi chống lại
K.Popper - nhà tư tưởng và khoa học nổi tiếng của chủ nghĩa tư bản hiện nay
xuyên tạc triết học Mác - đã chứng minh rất rõ (Maurice Cornforth, Triết học mở,
xã hội mở, Nxb. KHXH, 2002, tr.78-168) .
Nhưng có vấn đề là từ duy vật thực tiễn hay duy vật lịch sử
, chúng ta không phát triển phần duy vật nhân văn, tức triết học về con người
như một bộ phận lớn, cơ bản, một chuyên ngành của triết học Mác, dù là cấp độ
thứ ba tiếp theo duy vật lịch sử. Mác chưa có điều kiện phát triển triết học về
con người nhưng đã đặt những nền móng cơ bản. Ông chỉ mới phát triển phần duy vật
lịch sử. Tuy vấn đề con người vừa thẩm thấu trong tất cả vừa vừa tồn tại riêng
như một thực thể (và tổng thể), một đối tượng riêng của triết học. Nhưng giả định
Mác không định xây dựng triết học về con người như một hệ thống thì ngày nay thực
tiễn xã hội cũng có nhu cầu, có điều kiện và cần phải như vậy. Các triết học
trước Mác cũng có chú ý giải quyết vấn đề triết học con người nhưng chưa thật sự
duy vật, khoa học và biện chứng, chưa có cơ sở thực tiễn đúng đắn và rõ nét.
Có thể cho rằng một thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác, có loại ít đề cập tới chủ nghĩa nhân bản, tức thiếu tính nhân bản, nhân
văn, hoặc có loại khi đề cập tới tính nhân bản thì duy tâm, hoặc trực quan, thiếu
tính thực tiễn. Chũ nghĩa duy tâm cũng bàn về con người nhưng như Hêghen thì
con người chỉ là thực thể lý trí, không có cơ thể, không có tự nhiên, không có
hơi thở cuộc sống như Phơbách từng phê phán. Một số nhà triết học lấy con người
làm đối tượng triết học nhưng giải đáp chưa thành công. Chủ nghĩa Mác với chủ
nghĩa duy vật thực tiễn - lịch sử đã mang đến cho chủ nghĩa nhân bản một lập
trường duy vật biện chứng, nhưng lại chưa tiếp tục phát triển thuyết nhân bản,
nhân văn này thành một học thuyết triết học rõ ràng, hoàn chỉnh, và chưa xây dựng
khoa học nhân bản- nhân loại học. Một thời gian khá dài các nhà triết học
mácxít cứ ngộ nhận đề cập tới chủ nghĩa nhân bản ấy là duy tâm, là theo kiểu
Phơbách, hoặc rơi vào lập trường tư sản, trong khi đó nhấn mạnh một chiều và có
phần siêu hình, một chiều lập trường giai cấp, lập trường duy vật. Trong khi đó
chủ nghĩa nhân bản vẫn tiếp tục phát triển trong triết học tư sản hiện đại và
khoa học nhân học, nhân loại học ra đời. Về mặt nội dung nhân bản này, triết học
Mác tỏ ra chậm chạp hơn. Cũng cần làm rõ thêm là triết học nhân bản gắn với triết
học đạo đức nhưng không đồng nhất mà nó rộng hơn và làm cơ sở cho triết học đạo
đức.
Còn vấn đề duy vật thực tiễn chưa thể hiện đầy đủ trong các
giáo trình triết học, mới chỉ ở phần nhận thức luận, còn duy vật lịch sử thì vấn
đề thực tiễn trong nội dung hoạt động của con người chưa thật sáng tỏ, và đặc
biệt là từ đó không phát triển phần triết học về con người như vấn đề nhu cầu,
lới ích; vấn đề hoạt động, vấn đề giá trị, xu hướng phát triển người, sự tha
hóa và giải phóng con người… Tác giả của cuốn sách hai tập "Mác nhà tư tưởng
của cái có thể" đã nhận xét rất đúng về chủ nghĩa duy vật lịch sử là chủ
nghĩa duy vật thực tiễn về bản chất, còn về nội dung thì theo tôi không thể đồng
nhất hoàn toàn duy vật lịch sử và duy vật thực tiễn. Duy vật thực tiễn, xuất
phát "từ con người hiện thực", theo tôi hiểu, 1) một mặt được phát
triển thành duy vật biện chứng trong phần nhận thức là chính; 2) mặt nữa lại
phát triển thành duy vật lịch sử - phép biện chứng về quá trình lịch sử (cơ cấu,
động lực và tiến trình phát triển xã hội); 3) còn một mặt khác đang cần phát
triển thành duy vật nhân văn - phép biện chứng về quá trình phát triển con người
(cơ cấu, động lực và tiến trình phát triển con người và giải phóng con người).
Cần phát triển triết học nhân văn mới này tiếp theo truyền thống triết học nhân
loại và triết học Mác nhưng là theo lập trường duy vật thực tiễn và biện chứng…
Theo nghĩa hẹp thì chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ
phạm trù cơ bản là vật chất và biến đổi(vật chất nghĩa là biến đổi); còn chủ
nghĩa duy vật thực tiễn thì xuất phát từ phạm trù thực tiễn và con người hiện
thực; chủ nghĩa duy vật lịch sử thì xuất phát từ phạm trù thực tiễn và phạm trù
hình thái kinh tế xã hội; chủ nghĩa duy vật nhân văn xuất phát từ phạm trù con
người hiện thực và bản chất con người. Nhưng vỉ chủ nghĩa duy vật thực tiễn đã
phát triển thành duy vật lịch sử và hiện nay là duy vật nhân văn nên ít sử dụng
lại thuật ngữ duy vật thực tiễn như một hệ thống riêng. Triết học Mác - Lênin
ngày nay có ba phương diện cơ bản là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - thực
tiễn và duy vật nhân văn như một hệ thống, khối thép không tách rời và nhất
quán.
Có thể trình bày triết học Mác theo nghĩa rộng với quan niệm
vật chất mang tính xuất phát nhưng khi trình bày sang triết học xã hội và con
người thì phải xuất phát từ con ngừời hiện thực. Dù chúng ta không trình bày
như trước đây phần duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, duy vật nhân văn riêng
nhưng không vì vậy không rõ trọng tâm của những vấn đề ấy. Trên thực tế vấn đề
triết học về con người (thực thể thực tiễn- tự nhiên- xã hội ) theo chiều sâu
còn ít nội dung, nghèo nàn chưa tương xứng mà có dịp chúng tôi đã trình bày.
Do vậy, cần phân biệt nội dung triết học chủ yếu do Mác phát
hiện; những nội dung triết học do Mác kế thừa, cải tạo và phát triển; những nội
dung mà các thế hệ phát triển sau đó; những nội dung của triết học Mác với tư
cách là sự tổng hợp của một triết học.
Những hạn chế, sai lầm trong tiếp thu và cần phát triển triết
học Mác là có nhưng cái nền cơ bản là đúng.
Có quan niệm cho rằng khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô là
do sai lầm về lý luận. Đúng nhưng lý luận nào, cấp độ nào phải phân tích rõ. Phải
chăng là do lý giải sai về triết học như không rõ duy vật thực tiễn, chỉ nói
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử? Chúng tôi cho rằng không phải như vậy.
Nguên nhân tư tưởng lý luận của sự khủng hoảng và sụp đổ chủ yếu là ở chỗ khác.
Chẳng hạn như tư tưởng chủ quan, duy ý chí, ảo tưởng, hoặc giản đơn siêu hình
trong việc tuyệt đối hóa mặt đối lập trong mâu thuẫn, tức sai lầm ở cấp độ nhận
thức luận và phương pháp luận, tức có liên quan tới tư tưởng triết học. Mà sai
kiểu này không chỉ Liên xô mà cả Trung Quốc và Việt Nam. Vấn đề là không thắng
nổi tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản và tư tưởng tư sản. Đồng thời sai lầm trực
tiếp về lý luận kinh tế chính trị (không thừa nhận kinh tế thị trường và sở hữu
tư nhân khi nó còn có tính khách quan) và chủ nghĩa xã hội khoa học (về những
gia đoạn tiến tiên lên chủ nghĩa xã hội), sai lầm trong quan điểm xây dựng đảng
cầm quyền (độc đoán, vi phạm dân chủ…). Tức sai lầm ở tầm quan điểm, vận dụng
và tổ chứ thực hiện. Về lý luận thì thừa nhận tính khách quan của hiện thực vật
chất nhưng khi suy nghĩ và hành động lại chủ quan nên có thể dẫn đến sai lầm lý
luận ở cấp độ khác , thấp hơn như bỏ qua kinh tế thị trường, sớm xóa bỏ kinh tế
tư nhân.
Nếu có thể quy thêm cho triết học là do không phát triển triết
học về con người, triết học về chính trị, triết học phát triển… Riêng triết học
về phát triển thì ta thấy những vấn đề cụ thể của sự phát triển trong từng hình
thái xã hội, hay những khía cạnh hình thái kinh tế xã hội đặc thù, hình thái
kinh tế xã hội thứ sinh, tái thư sinh, những vấn đề cụ thể (động lực, nhịp độ,
tiến trình, giai đoạn phát triển…) mà thực tiễn nêu ra không được nghiên cứu hệ
thống và khái quát trong một triết học để từ đó trang bị cho hoạt động thực tiễn.
Thiếu sót và sai lầm lý luận ở cấp cụ thể hơn cả về triết học cũng vậy chứ
không phải ở cấp cơ bản là chính. Chúng ta nói lý luận lạc hậu và đổi mới tư
duy lý luận nhưng phải hiểu cụ thể lý luận nào?
Nhưng cũng phải nói lại rằng ý thức chính trị độc đoán và chủ
quan trong đang đã thắng thế trong một thời gian dài sau khi Lênin mất. Sai lầm
về tư tưởng như vậy có nguyên nhân sâu xa là do tàn dư xấu trong xã hội quá mạnh
và đảng lại mất cảnh gíac. Còn tại sao có sai lầm về lý luận là do tư tưởng
chính trị sai lầm (chính trị là thống soái- chính trị kiểu phong kiến). Cái sai
chiều sâu nhất là ở đó chứ không phải do "lý giải sai về …triết học
Mác"(Công tác tư tưởng và giảng dạy lý luận trong trường đại học và cao đẳng
hiện nay, sdd, tr. 42). Bởi vì ta có thể hỏi tại sao lý giải sai triết học Mác,
hoặc vận dụng, phát triển sai chủ nghĩa Mác- Lênin? Không thể qui cho nguyên
nhân chính là nghiên cứu chủ nghĩa Mác chưa kỹ, hoặc hoàn cảnh lịch sử (từ đất
nước lạc hậu, hoặc trong sự bao vây của chủ nghĩa tư bản đế quốc)- dù hoàn cảnh
lịch sử là cái nguyên nhân cuối cùng, thì chính tâm lý và tư tưởng kiểu phong
kiến tiểu tư sản, thói quan liêu- cái mà Lênin nói rằng sẽ làm cho chúng ta
tiêu vong bắt đầu từ sai lầm về 1ý luận, tư tưởng và cuối cùng là hành động thực
tiễn, nếu chúng ta, hoặc những lãnh tụ cách mạng không chiến thắng được nó. Tại
sao Nguyễn Ai Quốc - Hồ Chí Minh tìm được chân lý gắn chủ nghĩa dân tộc- chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa Mác Lênin, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội ở một nước
lạc hậu ở phương Đông là Việt Nam trong khi đó một số nhà cộng sản và quốc tế
thứ III lại không hiểu? Hiểu đúng khái niệm khoa học là cần thiết nhưng Hồ Chí
Minh hiểu triết học Mác, chủ nghĩa Mác-Lênin ở tinh thần của nó, vì bản thân
khái niệm có hạn chế của nó (mở miệng ra là sai rồi-Lão tử). Hồ Chí Minh coi rằng
chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phép biện chứng hay phương pháp làm việc biện chứng
(duy vật). Lênin nói rằng cái cần mượn vĩnh cửu ở chủ nghĩa Mác là phương pháp
luận (theo tôi hiểu là cả phương pháp duy vật, phương pháp thực tiễn, phương
pháp nhân văn- dân chủ, phương pháp biện chứng).
Có người lại nêu vấn đề tại sao chủ nghĩa Mac Lênin là đúng
nhưng lại nhiều người, nhiều nước hiểu sai, làm sai đến vậy, và sai lâu dài vậy.
Có thật chỉ là vận dụng sai không? Có thể khẳng định những nội dung chung, cơ bản
của chủ nghĩa Mác Lênin là đúng cho một giai đoạn lịch sử lâu dài. Và các ông
yêu cầu phải nghiên cứu, phát triển bổ sung tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử. Nhưng
đi vào một số khía cạnh cụ thể thì những thế hệ sau đã máy móc, không vận dụng
và phát triển sáng tạo (cả tầm lý luận và chủ trương, chính sách). Khi các ông
cho rằng chủ nghĩa xã hội, như là giai đoạn không còn tư hữu, không còn giai cấp
và không còn kinh tế thị trường. Nhưng tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội mà phần
nhiều còn thấp hơn cả xã hội tư bản, tức chủ nghĩa xã chưa phải hậu tư bản
nhưng vì tư duy giản đơn nên xóa bỏ sớm kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường.
Và ngay cả trường hợp chúng ta chúng minh được một vài nguyên lý lý luận của chủ
nghĩa Mác là sai ngay từ đầu thì cũng không thể phủ nhận toàn bộ chủ nghĩa đó với
hệ thống nhiều nguyên lý đúng đắn. Và cũng không nên hiểu mọi ý tưởng và quan
niệm hay nguyên lý nào đó Mác nêu ra đều đủ rõ ràng cả, không cần nghiên cứu,
phát triển là rõ hơn, chẳng hạn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, về giới
hạn của chủ nghĩa xã hội. Chính Mác không muốn đoán mò và cũng không làm chi tiết
vì thực tiễn và lịch sử hết sức đa dạng và sinh động. Tính hạn chế lịch sử của
chủ nghĩa Mác chỉ là ở chỗ đó chứ không phải ở chỗ chủ nghĩa này nói chung đã lỗi
thời.
Tại sao cũng chủ nghĩa Mác và Lênin lại vận dụng và phát triển
thành công, chỉ đạo thực tiễn thành công, hay với Hồ Chí Minh cũng vậy, còn với
người khác thì sai lầm lớn?. Không nên khi sai trong thực tiễn thì qui cho sai
lầm ở tất cả các khâu hay cả ở khâu cuối cùng bề sâu của nó, mà vấn đề là lần
ra xem sai ở khâu nào, hoặc thiếu ở khâu nào, trục trặc ở đâu chứ không phải
sai cả, sai khác với thiếu, yếu, hoặc không phát triển thêm nên bế tắc. Vấn đề
1ý luận ở đây cũng vậy.
Do đó không chỉ cần hiểu đúng những điều mà các nhà kinh điển
đã trình bày mà quan trọng nhất hiện nay là phát triển triết học Mác cả mọi
phương diện theo nhu cầu của thực tiễn. Với thực tiễn xã hội trên bình diện
nhân loại, toàn thế giới đang ở bước ngoặt chuyển sang toàn cầu hóa, kinh tế
tri thức và tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ với sự khủng hoảng của môi
trường sinh thái toàn cầu và cả môi trường chính trị xã hội và nhân văn, nhất
là ở các nước tư bản phát triển, thì như Ăngghen đã tổng kết là triết học duy vật
lại mang bộ mặt mới diện mạo mới, hình thức mới. Vây chủ nghĩa duy vật bây giờ
là gì. Theo tôi đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn- hình thái mới của triết học
mác xít ngày nay. Và một trong những chuyên ngành của triết học cần phát triển
nữa là triết học phát triển.
IV- Chủ nghĩa duy vật thực tiễn hay là chủ nghĩa duy vật
nhân văn?
Khi chúng ta nói về triết học Mác (C.Mác), chỉ thường nói về
hai phương diện - bộ phận cơ bản (có lẽ dùng từ phương diện chính xác hơn từ bộ
phận) cấu thành là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mà
không chú ý phương biện- bộ phận cơ bản thứ ba là chủ nghĩa duy vật thực tiễn.
Chính Mác cho rằng chủ nghĩa duy vật mới của mình là chủ nghĩa duy vật thực tiễn.
Còn chính từ quan niện duy vật về lịch sử theo cách nói của Ăngghen mà sau này
ta gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Có thể nói rằng đó là ba phương diện, ba mặt
hay ba bộ phận cơ bản bao hàm lẫn nhau tạo thành triết học Mác hoàn chỉnh như một
khối thép. Đúng như Michel Vađée, chúng ta không thể diễn đạt tư tưởng của Mác
bằng một từ, một phương diện nào đó mà, theo tôi, phải bao gồm cả ba phương diện
cơ bản đó. Theo nghĩa rộng thì chủ nghĩa duy vật thực tiển là bản chất, tính chất
cơ bản và nội dung bao trùm mới mẽ của Mác với tư cách là chủ nghĩa duy vật rất
mới, khác duy vật cũ chứ không chỉ ở tính biện chứng của nó.
Trong giới triết học mácxít có thời đã tranh luận gay gắt về
vấn đề này, nhưng hầu như phương diện duy vật thực tiển - hay theo chúng tôi, về
bàn chất, và theo nghĩa hẹp là chủ nghĩa duy vật nhân văn với tư cách là triết
học về con người thực tiễn- hiện thực trong quá trình lịch sử sáng tạo, đấu
tranh và giải phóng, tức phương diện nhân văn của triết học Mác - vẫn mờ nhạt
trong chương trình triết học mácxít. Tuy vậy, theo một tác giả triết học người
Pháp, Michel Vadée, trong tác phẩm Mác nhà tư tưởng của cái có thể (2 tập. Nxb.
KHXH, H. 1996) , đã trình bày có hệ thống về chủ nghĩa duy vật thực tiển với tư
cách là "triết học hành động", "triết học của cái có thể",
triết học về tư do và đó cũng là chủ nghĩa nhân bản triết học. Đặc biệt là
trong tập 2, tác giả có hẵn một phần và cũng là toàn bộ nội dung của tập 2 này
- Đó là Phần thứ 3: "Khả năng thực tế hay là chủ nghỉa duy vật thực tiễn".
Ở đây tác giả đã phân tích triết học của chủ nghĩa Mác với tư cách là một
"triết học hành động", triết học hoạt động (Mác nhà tư tưởng của cái
có thể, Nxb. KHXH, Hà Nội,. 1996, t. 2, tr.5, 9) như một sự đồng nghĩa. Nói triết
học hoạt động rộng hơn trết học thực tiễn. Chính các nhà triết học Italia, đứng
đầu là Gramsci đã có công phát hiện "triết học praxia" trong triết học
Mác. Tư tưởng triết học này của Mác có kế thừa và phát triển quan niệm của
Aríttốt, Hêgel và của Epicuê. Ở phần kết luận tập 2, tác giả trong mục về Con
người với tư cách là tồn tại của cái có thể, đã nêu vấn đề: "Cuối cùng, ở
Mác là cái có thể gì đây? Đối với chúng ta, dường như các khái niệm làm cơ sở
cho sự phê phán của Mác về chính trị kinh tế học, những gỉ hợp thành" chủ
nghĩa duy vật lịch sử", những gì cuối cùng xác định" chủ nghĩa duy vật
thực tiễn" của Mác với tư cách là triết học của hoạt động tư do - đều chứa
đựng tư tưởng về cái có thể ở một mức độ nhất định, đôi khi ở mức độ cao"
(Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr.337 ) . Trong triết học này, chủ nghĩa duy vật
mới ấy thì khái niệm "Hoạt động là một phạm trù chủ chốt" không kém
phạm trù hình thái kinh tế xã hội. Phạm trù hoạt động là phạm trù phổ biến
trong cả chủ nghĩa duy vật biện chứng, nó rộng hơn phạm trù thực tiễn. Trong tự
nhiên và xã hội, không chỉ có cấu trúc và tác động qua lại mà còn là hoạt động
của những lực lượng vật chất khách quan tự thân. Không hiểu như vậy là một thiếu
sót trong nhân thức về bản thể vật chất trong đó có xã hội và con người.
Thế nhưng chúng ta chưa bao giờ phân tích phạm trù naỳ một
cách thấu đáo có hệ thống và hơn nữa ta thường hiểu phạm trù hoạt động với tư
cách là phạm trù thực tiễn, và thực tiễn chỉ mới xem xét về mặt nhận thức luận
chứ không phân tích nó ở mặt bản thể luận và lịch sử luận với tư cách là phạm
trù triết học cơ bản và độc lập. Hoạt động là phạm trù phổ biến cả trong tự
nhiên và tư duy là cơ sở của phạm trù sản xuất và phạm trù thực tiễn (Mác nhà
tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr 5) . Trong xã hội đó là hoạt động thực tiễn. Hoạt động
này có nhiều mức độ và hình thức của nó có được thể hiện trong duy vật lịch sử
nhưng chưa phân tích sâu phạm trù thực tiễn với tư cách là phạm trù triết học về
con người, triết học tự do và giải phóng, nhất là trong các giáo trình.
Mặc dù gia đoạn phát triển trong tư tưởng của mình Mác phân
tích sâu cơ cấu kinh tế xã hội của sự tiến hóa và phát triển xã hội nhưng tư tưởng
về hoạt động thực tiễn luôn luôn là tư tưởng cơ bản, nền tảng của ông, được định
hướng từ đầu và ngày càng được đi sâu, hoàn chỉnh thêm dưới các góc độ khác
nhau, đặc biệt khi phân tích về con người và động lực lịch sử xã hội. Với ý
nghĩa đó Mác gọi triết học mới của mình là chủ nghĩa duy vật thực tiễn . Khi
xem xét vấn đề ở góc độ triết học, các nhà biện chứng luôn xem xét mối liên hệ
biện chứng, tác động qua lại của các sự vật và hiện tượng, nhưng Mác không dừng
lại vấn đề đó mà còn xem xét sự hoạt động và sự phát triển của chúng. C. Mác
cũng phê phán các nhà triết học ít coi phạm trù hoạt động như phạm trù then chốt
của triết học. Hêgel thì chỉ xem xét nó trong ý niệm và tinh thần, còn Phơbách
thì xem nó một cách trực quan, tư nhiên, Aríttốt nhìn toàn diện hơn cả mặt tiềm
năng và hành vi dưới tác động của năng lượng. Mác xem xét hoạt động cả cấp độ
hoạt động sinh thành của tự nhiên, của giới hữu cơ và của hoạt động của con người
và tập trung vào lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là hoạt động sản xuất vật
chất. Từ phạm trù này, Mác nghiên cứu các phạm trù quan trọng khác như: nhu cầu
và mục đích của hoạt động, giữa khách thể và chủ thể, tính tất yếu và khả năng,
về sự phát triển, tiến bộ, về tha hóa và tự do, sự giải phóng con người và loài
người, tức là đi tới chủ nghĩa nhân văn. Điều này không chỉ thể hiện ở tác phẩm
đầu tay mà đặc biệt sâu sắc và toàn diện ở trong bộ Tư bản - một tác phẩm không
chỉ thể hiện Lôgíchh viết hoa mà còn là tổng hợp sự nhuần nhuyễn của triết học
Mác cả ba phương diện cơ bản: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và duy vật thực
tiễn dưới hình thái triết học kinh tế, tức ở cấp độ triết học cụ thể hơn.
Chủ nghĩa Mác về triết học là vừa duy vật vừa biện chứng như
là bản chất và nội dung chung, nhưng nội dung đặc thù độc đáo là duy vật biện
chứng về quá trình phát triển xã hội. Tuy vậy, nó còn có một phương diện khác
cũng rất đặc thù, mới mẽ, bản chất là mặt thực tiễn, mặt hoạt động sáng tạo, sống
động, mặt con người - tiểu vũ trụ. Không có hoạt động thì không có biến đổi và
phát triển kể cả tư nhiên, xã hội và con người Do đó, theo Vachel Vađée, người
ta đã có nhiều cách gọi về triết học này như: Dùng các khaí niệm: chủ nghĩa duy
vật biện chứng, triết học thực tiển, khoa học lịch sử, bản thể luận về họat động
(Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr 14) . Dù nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch
sử không chỉ là về hình thái kinh tế xã hội trong quá trình tiến hóa của nó mà
đồng thời cũng là quá trình hoat động thực tiễn sáng tạo của con người như là
hoạt động của tự do, hoạt động giải phóng. Mác sử dụng khái niệm triết học:
"chủ thể" (Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr. 75) , và khái niệm hoạt
động như là một thực thể làm thành khái niệm cơ bản, then chốt của triết học ấy.
Với ý nghĩa đó là một thứ triết học chủ thể. Đáng tiếc là mặt này không được
đào sâu, mở rộng trong duy vật lịch sử như là một phương diện mới, theo chiều
sâu mà sự phát triển triển của xã hội không chỉ về mặt kinh tế xã hội mà cốt
lõi là sự phát triển trong bản chất của của con người với toàn bộ năng lực của
nó. Nói cách khác triết học thực tiển củng tức là chủ nghĩa duy vật nhân văn,
theo nghĩa rộng, triết học toàn diện về con người- không được phát triển như một
hệ thống vấn đề. ở chiều sâu. Do đó, trong các giáo trình triết học, ta thấy nội
dung cơ cấu hình kinh tế xã hội mà không thấy hết chiều sâu hoạt động và chiều
sâu con người vơí tư cách là một thực thể, từ đó làm lu mờ triết học Mác về tự
do. Triết học Mác là triết học của tự do (Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr.
256). Đúng là "toàn bộ tư tưởng của Mác được định hướng bằng tư tưởng về tự
do" . Về bản chất, đó là tư tưởng và triết học về tự do (Mác nhà tư tưởng…,
Sđd, t. 2, tr 256) , triết học về sự giải phóng. Đó là tư tưởng về sự nghiệp giải
phóng giai cấp và nhân loại, bao hàm cả dân tộc, tôn giáo… khỏi giai cấp thống
trị và nô dịch. Do vậy, chủ nghĩa công sản là phương tiện cao nhất để thực hiện
sự nghiệp đó. Tư tưởng nhất quán trên đây làm cho tư tưởng của Mác "trở
thành một chủ nghĩa nhân văn" (Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr 256 . Đây
là điều mà ta thấy khá nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta cần đào sâu
hơn nữa phương diện này của triết học Mác và bổ sung vào giáo trình hiện nay.
Chủ nghỉa duy vật lịch sử là phát hiện của Mác từ những năm
1843-1846, thì ngược lại, tư tưởng triết học về tự do, hằng số lớn trong toàn bộ
tác phẩm của Mác, và ngay từ thời trẻ (Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr 310 .
Chủ nghĩa Mác vì vậy là một triết học nhân văn, tức là là chủ nghĩa nhân đạo thực
tiễn cao nhất trong quá trình phát triễn của triết học nhân loại (Mác nhà tư tưởng…,
Sđd, t. 2, tr 294 . Trong ba thành tố trong chủ nghĩa Mác: tầm vóc khoa học,
khuynh hướng thực tiển và ý nghĩa triết học(Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr
332 , thì triết học là thành tố nền tảng. Nó là "một triết học: một chủ
nghĩa nhân bản, bởi vì con người - nghĩa là mỗi cá nhân riêng biệt - là cứu
cánh và mục đích tự thân, mục đích cuối cùng. Mác hiểu quá tình lịch lịch sử có
ý nghĩa "nhân văn". Chủ nghĩa duy vật "thực tiễn" không
ngăn cản tư tương Mác là tư tưởng về khả năng , bởi vì chủ yếu nó là triết học
về sự giải phóng và của sự tự do" (Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr 336 .
Tức là chủ nghĩa nhân văn hành thực tiễn. Chính vì thế không thể hiểu triết học
Mác đơn giản là quyết định luận mà thực ra là triết học vừa của cái tất yếu vừa
của cái khả năng, tức về bản chất là triết học tư do, triết học nhân văn. Hơn nữa
chúng ta không chỉ dừng lại sự phê phán triết học nhân bản duy tâm của Phơbách,
hoặc các trường phái không triệt để khác khi bàn về bản chất con người, chủ
nghĩa nhân bản mà chỉ một chiều nhân mạnh duy vật lịch sử - triết học xã hội mà
không chú ý phát triển triết học nhân bản, nhân văn của chủ nghĩa Mác. Trong
khi đó các nhà triết học tư sản lại đi sâu vào vấn đề con người, vấn đề hiện
sinh, vấn đề nhân bản, vấn đề hành vi, vấn đề nhân học… dù là phiến diện chăng
nữa cũng đã đặt ra những vấn đề cần lý giải và nghiên cứu mới về triết học chứ
không chỉ dừng lại triết học xã hội - duy vật lịch sử nói chung.
Tuy vậy, cũng cần thấy rằng trong tác phẩm trên tác giả của
nó cũng chỉ phân tích nhiều vấn đề hoạt động thực tiễn, vấn đề tư do ở góc độ
duy vật lịch sử , duy vật thực tiễn nhiều hơn, còn khía cạnh cơ cấu, động lực,
bản chất, quá trình phát triển của con người chưa đây đủ. Hơn nữa với phạm trù
thực tiễn hay hoạt động là thiên về mặt lịch sử xã hội mà chưa bao quát hết tư
tưởng về con người. nhất là các khái niệm liên quan như như cầu, lợi ích, động
cơ, bản chất, cơ cấu xu hướng tiến hóa của thực thể người. Phạm trù hoạt động
thực tiễn có một ngã đi vào duy vật biệnchứng, một ngã đi vào chủ nghĩa duy vật
lịch sử, một ngã đi vào duy vật nhân văn- duy vật thực tiễn. Do đó, theo chúng
tôi cần xây dựng bộ phận, phương diện mới của triết học của chủ nghĩa Mác -
Lênin là chủ nghĩa duy vật nhân văn- xét theo bản chất, trong đó bao hàm và dựa
vào phát triển triển chính chủ nghĩa duy vật thực tiễn - xét theo nguồn gốc - bản
thể luận nói trên. Chủ nghĩa duy vật nhân văn vẫn lấy phạm trù hoạt động thực
tiễn làm một phạm trù xuất phát, cơ bản, đồng thời coi phạm trù bản chất con
người, cũng là một phạm trù xuất phát nữa đồng thời coi các phạm trù sự phát
triển tự do và nhân đạo của con người là những phạm trù nền tảng. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử bàn về bản thể xã hội nóí chung trong quá trình lịch sử, còn chủ
nghĩa duy vật nhân văn bàn về bản thể con người và sự phát triển con người với
tư cách là cá nhân noí chung.
Do vậy, ba ngôi: tự nhiên - xã hội - và con người hay thiên
- địa - nhân là tam vị nhất thể phải đươc thể hiện trong triết học Mác - Lênin
ngày nay, như Hồ Chí Minh đã đưa Dân tộc học phương Đông vào chủ nghĩa Mác Lênin
vậy.
Với cách tiếp cận chủ nghĩa duy vật thực tiễn hay nói đầy đủ
hơn từ bản chất của nó là chủ nghĩa duy vật nhân văn. Từ đó, theo cách nói của
AndréJosel, chính là "Tiến tới xây dựng lại triết học mácxít"- tên một
cuốn sách xuất bản tại Paris, năm 1984 (Mác nhà tư tưởng…, Sđd, t. 2, tr 86) .
Điều đó theo chúng tôi có nghĩa là trtên cơ sở đổi mới tư
duy lý luận, chúng ta cần phát hiện lại triết học Mác, nắm lấy bản chất, phương
diện - bộ phận cơ bản cấu thành từ đó tái cấu trúc lại triết học âý, bổ sung những
vấn đề mới, nâng cao nó. Xây dựng các giáo trình triết học cũng là một quá
trình biện chứng chứ không phải một cách giáo điều, khô cứng, một lần là xong
và theo một khuôn mẫu nhất định. Cách trình bày triêt học thực tiễn của Michel
Vandrée nói trên cũng là một ví dụ trong việc nhận thức lại và cách trình bày
sinh động về triết học mácxít rất cần tham khảo và tiếp thu. Thiếu sót chính
các giáo trình triết học của chúng ta hiện nay chủ yếu là phương diện con người
về mặc triết học chưa có độ rộng và độ sâu cần thiết để phù hợp với cách tiếp cận
của Mác là chủ nghĩa duy vật thực tiễn cũng là chủ nghĩa duy vật nhân văn như
đã nói ở trên.
V- Về phát triển triết học về con người - một khuynh hướng
quan trọng nhất trong triết học Mác ngày nay
Như chúng ta đã biết, triết học Mác- Lênin là học thuyết về
sự phát triển phổ biến và toàn diện nhất về tự nhên, xã hội và con người.Triết
học đó có quá trìinh phát triển và tất nhiên ngày nay có nhu cầu phát triển hơn
nữa từ những tác động sâu sắc của thực tiễn xã hội và cuộc đấu tranh tư tưởng,
lý luận về thế giới quan, phương pháp luận và nhân sinh quan.
Một trong những khuynh hướng và vấn đề quan trọng nhất đó la
triết học về con người.
Trên nền tảng của quan niện duy vật và biện chứng Mác đã
phát minh ra học thuyết duy vật lịch sư mà nội dung cơ bản nhất là lý luận về
hình thái kinh tế xã hội và vai trò con người đối với lịch sử. Mặc dù ngay từ đầu
Mác đã đề cập khá nhiều vấn đề về con người, lấy con người hoạt động thực tiễn
trong tổng hòa quan hệ với tự nhiên và xã hội, làm điểm xuất phát cho triết học
của mình. Nhưng nhìn chung ông đi sâu vào nghiên cứu hệ thống xã hội mà ít có dịp
nghiên cứu có hệ thống như một học thuyết lớn, cũng tức là ít có chuyên luận
riêng đồ sộ về vấn đề này. Tuy thế vấn đề con người xã hội, bản chất xã hội của
con người vẫn được Mác nghiên cứu, trình khá sâu sắc còn con người vô thức, tâm
linh, con người tự nhiên thì quả là còn trống.
Chủ nghĩa Mác đã phân tích con người về mặt chính trị, mặt
tinh thần, nhất là mặt kinh tế. Các nhà kinh điển đã phát hiện và làm rõ sự
hình thành và phát triển của con người và loài người chủ yếu từ lao động sản xuất
xã hội; đồng thời cũng soi sáng phân tích mặt tự nhiên, huyết thống, nhân chủng
đối với sự hình thành ấy của con người. Nhưng dù sao khi Mác nghiên cứu con người
xã hội đã quan niệm rằng con người là gia đình, là xã hội, là nhà nước và các
hoàn cảnh xã hội nên đã làm rõ cơ sở khách quan của sự hình thành, phát triển
con người là một bước tiến xa so với những tác giả đương thời.
Trước Mác, các nhà triết học thường chỉ nghiên cứu làm rõ mặt
nhân bản, tự nhiên, mặt đạo đức, mặt nội tâm của con người trong quan hệ với vũ
tru, như trong đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng. Ở đây có nhiều hạt nhân hợp lý cần
nghiên cứu kế thừa.
Triết học tư sản hiện đại, một mặt tiếp tục nghiên cứu
khuynh hướng triết học khoa học, hướng ngoại, thì maạ¨t khác lại đi vào nghiên
cứutriết học nhân bản, phi duy lý, mang tính hướng nội dù có mặt duy tâm nhưng
đã có bước tiến là đi sâu vào nghiên cứu con ngưới vô thức, tâm linh. Đó là chủ
nghĩa Freud, chủ nghĩa Hiện sinh, thượng và hạ, đặc biệt là nhân loại học triết
học. Các khuynh hướng của chủ nghĩa nhân bản nói trên dù sao cũng đã nêu lên được
những vấn đề cụ thể trong đời sống nội tâm của con người như kết cấu nhân cách,
vấn đề vô thức, trực gíc, nhưng yếu tố tâm lý, tâm linh, những trạng thái tâm
lý của cái tôi (vui, buồn, cười khóc, cô đơn, buồn phiền, thất vọng…), vấn đề
sinh mệnh.trong chiều sâu bản thể, nhất là khi cái tôi trong xã hội tư bản chủ
nghĩa rơi vào khủng hoảng, bế tắc.Riêng nhân loại học triết học đã cố gắngđưa
ra đối tượng của mình như là sự tiếp cận toàn diện đối với con người trong mối
liên hệ với chính mình, với lịch sử, với vũ trụ và Thượng đế. Nhân loại học hay
nhân học là một ngành khoa học được thừa nhận ngày nay, nhưng nhân loại hoại học
còn là về mặt triết học, tức vấn đề thế giới quan. Về mặt triết học, nó bao gồm
nhân loại học sinh vật học, nhân lạoi học tâm lý, nhân loại học văn hóa. Các
nhà nhân loại học về sau này cũng đã nhận thấy mặt còn hạn chế là vấn đề đặt ra
còn mang tính nhị nguyên, lại chưa chú ý đếm mặt xã hội chính trị của con người.
Nhưngcách đặt vấn đề của nhân loại học triết học có khá nhiều mặt cần phải quan
tâm nghiên cứu với tinh thần khách quan biện chứng.
Đúng là nhân loại học đã không chú ý, hoặc lãng tránh vấn đề
xã hội, kinh tế và chính trị của con người, tức là nghiên cứu tính hiện thực của
con người trong kinh tế và chính trị từ xã hội tư bản chủ nghĩa, chứ không chỉ
là mặt sinh vật học và văn hóa.Về mặt này quả là họ không vượt được chủ nghĩa
Mác.
Trước uy tín của chủ nghĩa Mác về vấn đề con người, cũng đã
có khuynh hướng muốn kết hợp chủ nghĩa Freud, hoặc chủ nghĩ Hiện sinh với chủ
nghĩa Mác.. Tuy có mặt hợp lý nào đó nhưng họ thường nhìn qua lăng kính của chính
chủ nghĩa Freud hay chủ nghĩa Hiện sinh, làm sai lạc quan điểm mác xít về con
người xã hội, nên nhìn chung chưa có bước tiến đáng kể nào.
Khi chúng phê phán các triết học nhân bản trước đây cũng như
triết học tư bản hiện đại, phê phán phải khách quan, biện chứng, tức là lược bỏ
mặt không đúng nhưng phải kế thừa những nội dung hợp lý, đặt những vấn đề ấy
trên miếng dđất hiện thực, khoa học với lập trường duy vật biện chứng và nhân
văn, có cách nhìn bao dung, tìm cái tương đồng ở lòng bác ái, đức từ bi, tính
nhân nghĩa, tình thương yêu nhân loại khổ đau… như Hồ Chí Minh đã sử sự đối với
các bậc vĩ nhân, các tôn giáo. Phê phán chủ nghĩa nhân bản Phơbách như Mác đã
làm cũng tức là không gạt bỏ tính nhân đạo cơ bản, vấn đề triết học con người,
cải tạo, phát triển nó, đối triết học tư sản ngày nay cũng vậy, không thể từ cực
này sang cực khác.
Ngày nay trong khoa học hiện đại, đặc biệt là các môn cận
khoa học, cận hóa học, cận tâm lý, cận vật lý, cận sinh học, có thể cả tâm linh
học,đồng thời với toán tập mờđang cho ta phương pháp, dữ liệu, thông tin để hiểu
sâu sác về thế giới nội tại của conngười,hiểu bản thể con người theo chiều sâu
vũ trụ của nó. Ở đây ta bắt gặp vật lý hiện đại với đạo học phương Đông, như
thuyết đạo học của Lão tử, về chân như cũa Phật học, về âm dương, kinh dịch
trong nền văn hóa cổ Trung Hoa. Đó là chưa kể đến thuyết nhân nghĩa, kiêm ái của
Khổng Mạnh. Những tư tưởng triết học này đã ảnh hưởng lâu dài, mạnh mẽ tới tư
tưởng và tư duy ở nước ta và các nước phương Đông.
Một xu hướng nổi bật hiện nay là phương Đông thì hương về
văn minh kỹ thuật phương Tây, còn phương Tây lại hướng về văn hóa cổ đại và nhất
là minh triết phương Đông. Dù mỗi bên có đặc thù riêng trong phong cách tiếp cận
và vấn đề nhưng lại không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau, đặc biệt trên vấn
đề nhân bản và nhân nghĩa, nhân văn, vấn đề con người trong tổng hoà nhân sinh
-vũ trụ ở cả chiều rộng và chiều sâu. Xu hướng tích hợp văn hóa Đông Tây đang
thành hiện thực và rất có triển vọng để tạo nên minh triết mới của thời đại mới
trí tuệ và hội nhập. Nhiều nhà triết học Đông -Tây đang đi theo xu hướng đó đã
có nhiều gặt hái thành công (như công trình Đạo vật lý, Tích hợp văn hóa Đông
Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai). Nhiều vấn đề triết học mới nói
chung và triết học về con người đang đặt ra có tầm thời đại, từ thực tiễn đương
đại, từ triết cổ phương Đông cần được nghiên cứu, giải quyết để thúc đẩy triết
học tiến lên, nhất là triết học Mác..Đó là những cơ hội và vấn đề mà thời Mác,
Ănghen, Lênin chưa có. Hồ Chí Minh cũng là một mẫunhình kết hợp văn hóa Đông
Tây và thúc đây cho sự kết hợp đo. Ngày nay một số nước ở châu Á, phương Đông
đã thực hiện sự phát triển kinh tế xã hội bằng sự kết hợp văn hóa, triết lý
Đông - Tây rất thành công.
Việc phát triển triết học hiện đại về con người mà giới triết
học đang quan tâm thì khá nhiều, nhưng chung quy là:hệ con người sinh học trong
sự liên thông với bản thể vũ trụ; vấn đề con người tâm linh, con người sinh
thái, khả năng ngoại cảm, vô hình, năng lực trao đổi thông tin; vấn đề con người
kinh tế với con người chính trị, con người văn hóa, những tiềm năng con người cần
phát triển; vấn đề phát triển nhân cách con người, chỉ số phát triển người; vấn
đề đặc thù và phổ biến trong bản chất, cấu trúc con người; sự tha hóa, què quặt
trong tâm hồn, đạo đức củia con người hiện đại và sự nghiệp giải phóng con người
trong quan hệ với giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội..
Những vấn đề trên đây có thể gợi mở thêm cho sự tổng hợp,
tích hợp triết họcvề con người. Mà theo chúng tôi với cách tiếp cận tổng hợp-
tích có triển vọng nhất, khắc phục sự cô lập, chia cắt con người của các khoa học
chuyên ngành và tư duy phân tích, đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn. Chủ nghĩa
duy vậy nhân văn như thế là một bộ phận mới, cơ bản của triết học Mác hiện đại.
Vấn đề chủ nghĩa nhân văn đã được nhiều người nghiên cứu nhưng phải nâng lên tầm
một triết học.
Chủ nghĩa duy vật nhân văn như thế là khác xa với nhân loại
học triết học, dù có kế thừa từ đó cũng như nhiều lý luận nhân bản khác trên nền
tảng triết học Mác, cho nên nó lại có thể mang lại cho chủ nghĩa nhân văn cũ một
phương hướng phát triển mới đúng hơn, Triiết học Mác cũng như các khoa học phải
có khả năng sinh thành, phân hóa và tổng hợp mới, tạo ra bộ phận mới, trình độ
mới, giai đoạn mới theo sự phát triển của thực tiển và lịch sử khoa học. Tất
nhiên, triết học Mác sẽ phát triển ở nhiều phương diện của nó, nhưng theo chúng
tôi thì phát triển triết họcvề con người là xu hướng và vấn đề lớn nhất và quan
trọng nhất.
Như thế triết học Mác sẽ hoàn chỉnh ở cả ba bộ phận lớn về
vũ trụ, xã hội và con người, tạo thành một chỉnh thể. Chủ nghĩa duy vật nhân
văn là triết học khoa học toàn diện về con người đang phát triển trong thời đại
ngày nay. Đó là cơ sở triết học trực tiếp cho chiến lược phát triển con người,
trước hết ở nước ta, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đây không phải là vấn đề chữ
nghĩa mà là một cách tư duy triết học tổng hợp- thống hợp khả dĩ cho ta dễ năm
được hệ thống và bản chất điều muốn diễn đạt.
Nguồn:Tạp chí Thông tin khoa học xã hội (3/2006)
Đánh giá bài viết?