Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc sống?
GS. TS. Lê
Hữu Tầng
Tạp chí Triết
học
Nguồn: http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/triet_hoc_co_the_dong_vai_tro_gi_trong_cuoc_song-e.html
Trong bài
này, tác giả đề cập đến hai thái cực trái ngược nhau khi đánh giá vai trò của
triết học trong cuộc sống. Thái cực thứ nhất coi thường vai trò của triết học
vì cho rằng:
1) Triết học
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá chung nên những kết quả nghiên cửu của
nó không có tác dụng thiết thực gì hết,
2)Triết học
không có phương pháp và trang thiết bị nghiên cứu riêng của mình như của khoa học
tự nhiên nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu triết học không được bảo đảm.
Thái cực thứ hai, ngược lại, lại tuyệt đối hoá vai trò của triết học, cho rằng
chỉ cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của
cuộc sống.
Tác giả đã
luận chứng cho quan điểm, theo đó, cả hai thái cực trên đều sai lầm vì để giải
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể của cuộc sông, cần kết hợp chặt
chẽ cả hai loại tri thức: Tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri
thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết
tình hình thức tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn).
Chủ đề Hội
thảo của chúng ta là ( Nhận thức lại vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn
cầu. Nói "nhận thức lại", trong trường hợp này, có nghĩa là nhận thức
trước đây là phù hợp với thời kỳ trước đây, nhưng ngày nay, trong kỷ nguyên
toàn cầu, nhận thức đó cần được bổ sung, hoàn thiện thêm cho phù hợp với bối cảnh
mới.
Muốn vậy,
có lẽ cần xem lại xem vai trò của triết học đã được đánh giá như thế nào?
Triết học,
như chúng ta biết, đã có lịch sử tồn tại suốt mấy ngàn năm với rất nhiều hệ thống,
trào lưu, trường phái khác nhau. Mặc đầu vậy, theo nhận xét của Viện sĩ
T.I.Ôiderman - nhà nghiên cứu lịch sử triếthọc nổi tiếng của Liên Xô trước đây
và Cộng hoà Liên bang Nga ngày nay - thì cho đến nay, hầu như không có một định
nghĩa nào về triết học được mọi người thừa nhận. Sự thống nhất ý kiến giữa các
nhà triết học vĩ đại về một định nghĩa triết học nào đó là hết sức hiếm hoi, gần
như là một ngoại lệ. Song, cũng giống như trong lĩnh vực văn hoá, với trên 300
định nghĩa khác nhau, nhưng không vì vậy mà văn hoá không phát triển. Triết học
cũng thế. Tuy hiện chưa có định nghĩa nào được mọi người thừa nhận, nhưng triết
học cũng không vì vậy mà không tiếp tục tồn tại và phát triển, không tiếp tục
xuất hiện thêm các hệ thống, trào lưu, trường phái mới.
Triết học,
ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù tồn tại ở phương Đông hay
phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường phái rất khác nhau,
nhưng nội.đung cất lõi của triết học bao giờ cũng bao gồm những quan điểm lý luận
chung nhất, những lời giải đáp có luận chứng (dù được tán thành hay không được
tán thành) cho những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, về vị
trí của con người trong thế giới đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên
và với bản thân con người. Trong triết học, người ta luôn tìm thấy những biện
luận, phán xét suy tư, những băn khoăn, trăn trở cùng những lời giải đáp cho
các câu hỏi về số phận của cá nhân con người trước thiên nhiên bao la, về nguồn
gốc cùng những bí ẩn của thiên nhiên bao la ấy, những sức mạnh, những lực lượng
chi phối nó và chi phối cuộc sống của chính bản thân con người, về cuộc sống và
cái chết của họ... Những lời giải đáp ấy, dù là khác nhau trong các hệ thống,
trào lưu, trường phái triết học khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất
định về thế giới mà trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống,
trào lưu, trường phái triết học đó.
Song, bất cứ
hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm vụ là lý giải về thế
giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải ấy, triết học trở thành cái
đinh hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành cái định hướng cho con
người trong hành động, triết học thực hiện một chức năng khác - chức năng
phương pháp luận.
Về nguyên tắc,
giá trị định hướng này của triết học không khác với giá trị định hướng của các
nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận của các bộ môn khoa học chuyên ngành nào
đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực, chẳng hạn, không khác với
giá trị định hướng của định luật bảo toàn và chuyền hoá năng lượng, của quy luật
giá trị... Cái khác chỉ là ở chỗ, vì các nguyên lý, các khẳng định của triết học
là kết quả nhận thức những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất
của cả tự nhiên, xã hội lẫn tư duy, cho nên chúng có tác dụng định hướng không
phải chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy như trong trường hợp các nguyên
lý, quy luật do các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các
nguyên lý, các khẳng định triết học ấy giúp cho con người khi bắt tay vào
nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật bao giờ cũng có được một lập trường xuất
phát nhất định. Lập trường xuất phát ấy giúp cho chủ thể hành động thấy trước
được phương hướng vận động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ
bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là nó
giúp cho con người xác định được về đại thể con đường cần đi, có được phương hướng
đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những mò mẫm giữa một khối những
mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp mà không có tư tưởng dẫn đường. Xuất
phát từ một lập trường triết học nhất định, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn một
phương hướng giải quyết vấn đề theo một cách thức nhất định, và xuất phát từ những
lập trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương
hướng và cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là,
việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đấy sẽ không
chi đơn thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định,
một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp
nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.
Khẳng định
trên đây cho thấy triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược
lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một
lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết
đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập
trường triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Chính ở đây thể hiện giá trị đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức
năng phương pháp luận của triết học. Tiếc rằng, giá trị định hướng này hiện nay
chưa được khai thác triệt để. Có lẽ chính vì vậy mà còn có những sự đánh giá
chưa thoả đáng về vai trò của triết học trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc
sống.
Sự đánh giá
chưa thoả đáng đó thể hiện trước hết ở thái độ coi thường vai trò của triết học.
Những người giữ thái độ này cho rằng, vì triết học nghiên cứu và giải quyết những
vấn đề quá chung, nên những kết quả nghiên cứu của nó chẳng có tác dụng thiết
thực gì hết?
Ý kiến trên
đây, trong chừng mực nhất định, có căn cứ của nó, vì trong nhiều trường hợp, khi
giải quyết những vấn đề cụ thể, những người làm công tác thực tiễn không thể
tìm thấy ở những người làm công tác triết học một câu trả lời cụ thể. Trong khi
đó, trong hoạt động thực tiễn, con người lại bắt gặp và buộc phải giải quyết
trước hết chính những vấn đề hết sức cụ thể này. Vậy, phải chăng ở đây, tri thức
triết học là vô ích?
Không! Mặc
dầu những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ
cũng là những vấn đề hết sức cụ thể, nhưng để giải quyết những vấn đề cụ thể ấy
một cách có hiệu quả, không một ai có thể lảng tránh việc giải quyết những vấn
đề chung hay xuất phát từ lời giải đáp đã có về những vấn đề chung liên quan với
các vấn đề cụ thể đó. A.Anhxtanh đã từng nhận xét vào năm 1954: "Những khó
khăn mà nhà vật lý hiện nay đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã buộc ông
ta phải đề cập đến những vấn đề triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý của
các thế hệ trước". M.Plank cũng có nhận xét tương tự: "Một tập hợp những
sự kiện mới càng rối rắm bao nhiêu, các tư tưởng mới càng nhiều hình nhiều vẻ
bao nhiêu thì nhu cầu phải có một thế giới quan liên kết lại càng cảm thấy trở
nên bức thiết bấy nhiêu. Xu hướng tìm đến thế giới quan liên kết này có ý nghĩa
lớn lao không chỉ đối với vật lý học, mà còn đối với toàn bộ khoa học tự
nhiên". Như vậy, khi đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể của hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ vấp phải
những vấn đề chung, trong đó có những vấn đề triết học mà việc giải quyết
chúng, là cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Những lời giải đáp tìm
được ở đây, trong lĩnh vực triết học, là sự đóng góp rất thiết thực vào việc giải
quyết những vấn đề hết sức cụ thể ấy chứ không phải nằm bên lề của việc giải
quyết những vấn đề đó.
Tuy nhiên,
không nên hiểu sự đóng góp này một cách giản đơn. Không nên hiểu hiệu quả của
nghiên cứu triết học như hiệu quả nghiên cứu của các bộ môn khoa học kỹ thuật,
càng không nên hiểu nó như hiệu quả của hoạt động sản xuất trực tiếp. Các kết
luận mà nghiên cứu triết học đạt tới không phải là lời giải đáp trực tiếp, cụ
thể cho từng vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà, như đã nói trên,
nó là cơ sở cho việc tìm kiếm những lời giải đáp trực tiếp, cụ thể ấy. Chẳng hạn,
kết luận mới của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam: "Lực lượng sản xuất bị
kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất,, chính là cơ sở cho việc xác định hàng loạt
chính sách mới, đúng đắn hơn trong nhiệm vụ cải tạo xã hội và phát triển kinh tế
trong suất quá trình đổi mới. Trên đây chỉ là một trong rất nhiều thí dụ cho thấy
hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị đinh hướng cho hoạt động
thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết luận chung, có tính khái
quát cao mà nó đạt tới chứ không phải là những lời giải đáp cụ thể cho từng trường
hợp cụ thể.
Một lý do nữa
đã góp phần làm xuất hiện thái độ coi thường vai trò của triết học đó là sự
nghi ngờ về tính chân lý của các khẳng định triết học. Người ta đặt câu hỏi:
tri thức triết học có đáng tin cậy không khi nó đóng vai trò là cái định hướng
cho con người trong hoạt động thực tiễn? Vấn đề là ở chỗ, trong thời kỳ cổ đại,
khi các khoa học chuyên ngành chưa phát triển, thậm chí chưa xuất hiện, con người
có thể bằng lòng với lời giải đáp của triết học đối với các vấn đề mà con người
quan tâm về thế giới xung quanh mình. Nhưng, với sự xuất hiện và phát triển, thậm
chí phát triển mạnh mẽ của các khoa học chuyên ngành, thì con người không còn
thoả mãn với những câu trả lời của triết học được nữa. Tại sao vậy?
Trước hết,
vì các khẳng định của khoa học phải được kiểm tra bằng các tài liệu thực nghiệm.
và về nguyên tắc, có thể bị thực nghiệm bác bỏ. Trong khi đó, các khẳng định của
triết học không thể kiểm tra được bằng thực nghiệm và cũng không bác bỏ được bằng
thực nghiệm (chẳng hạn, không thể làm được như thế với các luận điểm như vật chất
có trước, ý thức có sau, với quan điểm của Hêghen nói rằng cơ sở phát triển của
giới tự nhiên là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối…).
Thứ hai, triết
học không có phương pháp nghiên cứu riêng của mình, trong khi đó các khoa học tự
nhiên đùng các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại với sự trợ giúp của các
phương tiện hiện đại nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu đạt được được
bảo đảm.
Những ý kiến
nhận xét trên đây, trong chừng mực nhất định, cũng có căn cứ của nó, vì đúng là
triết học không có trong tay mình một phương tiện kỹ thuật nào, một thiết bị
quan sát, thí nghiệm nào để tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu và trên cơ
sở đó, tiến tới khám phá những bí ẩn của sự vật, hiện tượng mà mình nghiên cứu.
Vậy, triết học dựa vào đâu và làm cách nào để đi tới chân lý?
Trên cơ sở
phân tích và khái quát hoá đặc điểm nhận thức của triết học trong suốt quá
trình phát triển lịch sử của nó, nhiều tác giả rút ra kết luận rằng, triết học
tự bản thân nó không trực tiếp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ
thể, nhưng nó sử dụng các kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo
thực tiễn đã được ghi lại trong các khái niệm, lý thuyết của các bộ môn khoa học
chuyên ngành khác, được thể hiện trong các tác phẩm vặn học, nghệ thuật, các
chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ... Tất cả những cái đó tạo nên "nền tài liệu thực
nghiệm" mà xuất phát từ đấy, triết học đi tới các phát hiện của mình.
Triết học
đi tới các phát hiện đó bằng cách nào? 'Có tác giả cho rằng bằng tư duy lý luận,
tác giả khác lại cho rằng bằng khái quát hoá lý luận, số thứ ba cho rằng bằng
luận giải (interprêtaxia)... Chính bằng cách đó, các kết luận triết học được
rút ra và lại quay trở lại .phục vụ cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo
thực tiễn.
Từ kinh
nghiệm nghiên cứu vật lý học của mình, M.Bom cho rằng, vật lý học của thực tiễn
không? Đó là những vấn đề đặt ra rất cần được nghiên cứu, giải quyết. Song, dù
thế nào chăng nữa, chúng tôi vẫn nghĩ rằng, có lẽ cùng với việc sử dụng các
phương pháp tư duy lý luận hay khái quát hoá lý luận… như đã kể trên, nên chặng,
việc nghiên cứu triết học cần được kết hợp với các nghiên cứu khoa học chuyên
ngành, sử đụng phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành ấy để đưa khách thể
nghiên cứu vào tình huống nghiên cứu đã được lựa chọn một cách có chủ đích, để
buộc khách thể phải trả lời câu hỏi của người nghiên cứu. Hy vọng rằng bằng
cách làm ấy, chúng ta có thể làm cho các kết quả nghiên cứu của chúng ta có cơ
sở hơn, đáng tin cậy hơn, thuyết phục hơn chăng! Điều này càng đặc biệt quan trọng
trong kỷ nguyên toàn cầu, kỷ nguyên của những vấn đề liên quan đến toàn cầu mà
việc giải quyết chúng đòi hỏi con người phải vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp,
cục bộ, địa phương, quốc gia để tiến tới tầm nhìn toàn cầu, một tầm nhìn không
thể không đòi hỏi phải có sự tham gia của triết học.
Bên cạnh
thái độ coi thường vai trò của triết học - một thái độ rất tiếc rằng, hiện nay
vẫn hiện diện ở nơi này, nơi kia, trong lĩnh vực hoạt động này hay khác - lai
có một thái độ khác: thái độ tuyệt đối hoá vai trò của triết học, nghĩ rằng chỉ
cần nắm được triết học thì lập tức sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể
của thực tiễn. Có nơi, có lúc, vì quá nhấn mạnh vai trò của triết học nên đã
gây ra ở một số người ảo tưởng rằng, triết học là cái chìa khoá vạn năng, chỉ cần
nắm được nó là tự khắc sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Có nơi, có lúc, với lòng
nôn nóng muốn đưa triết học vào phục vụ hoạt động thực tiễn, các cán bộ triết học
đã hăng hái lao vào nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn quá cụ thể chỉ
với những tri thức triết học chung mà quên mất rằng, để có thể tìm ra lời giải
đáp đúng đắn cho những vấn đề hết sức cụ thể, bên cạnh những tri thức lý luận
chung, trong đó có tri thức triết học, còn cần có hàng loạt tri thức khác nữa,
như sự am hiểu tường tận về tình hình thực tế liên quan đến vấn đề cụ thể đang
được xét trong một bối cảnh không gian - thời gian nhất định, sự hiểu biết sâu
sắc về nghề nghiệp, đặc biệt là sự nhạy cảm thực tiễn, một sự nhạy cảm chỉ có
được qua quá trình đào luyện, lăn lộn lâu năm trong nghề. Thiếu những cái vừa
nói, không một nhà triết học uyên bác nào có thể tìm ra được một lời giải đáp
đúng đắn nào cho bất cứ một vấn đề cụ thể nào của cuộc sống, cho dù đó là một vấn
đề đơn giản nhất đi nữa.
Như vậy, để
có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và
vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: hoặc
là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, dễ bằng
lòng với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu
nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối
hoá vai trò của triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng một cách máy
móc những nguyên lý, những quy luật, những tri thức triết học chung mà không
tính đến tình hình cụ thể đó không nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường
hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi bị thất bại.
Kết hợp chặt
chẽ cả hai loại tri thức trên đây tri thức chung (trong đó có tri thức triết học
và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu
biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực
tiễn) - đó là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động
cụ thể của mình.
Nguồn:Tạp
chí Triết học
Số lượt
xem:22.818-Cập nhật lần cuối:09/09/2006 09:46' SA
Bản in Về đầu
trang
Bình luận(7)
Một số ý kiến..
Thứ bảy, 23/09/2006 10:47' SA
Đọc bài
'Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc sống?" thật ý nghĩa. Tôi rút
ra được rất nhiều điều. Xin cám ơn tác giả.
Tôi đồng cảm
với bài viết này!
Thứ tư, 25/10/2006 09:39' CH
Tôi đồng ý
với bài viết trên. Qua thực tiễn cuộc sống của mình, tôi thấy nếu như một người
có nhân sinh quan sâu sắc hay là có sự suy ngẫm nhiều về thế giới xung quanh
thì họ sẽ sáng tạo hơn và can đảm hơn, dám nghĩ dám làm hơn trong những quyết định
của mình về cuộc đời hay sự nghiệp...
Thực chất
vai trò của triết học trong cuộc sống
Thứ ba, 21/11/2006 12:22' CH
Trước hết
tôi xin khẳng định rằng: triết học có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển
của xã hội.
Lịch sử
loài người minh chứng rằng những quốc gia có nền triết học phát triển rực rở đều
là những nền văn minh của nhân loại, ví dụ nhưng trung hoa, ấn độ, hy lạp....và
thiết nghĩ công việc cần giải quyết bây giờ là lý giải vì sao như thế và triết
học tác động trong xã hội ấy như thế nào, sau đó dựa vào hiện thực theo quan điểm
lịch sử cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể mà phân tích vai trò của triết học trong
cuộc sống. Nếu theo hướng nào chúng ta mới giải quyết được vấn đề.
Theo tôi
như thế này:
Theo quan
điểm duy vật biện chứng thì ý thức là sự phàn ảnh của hiện thực vào bộ óc con
người một cách sáng tạo, triết học là 1 môn khoa học do vậy nó cũng là một phần
của ý thức, cái đặc thù của triết học so với các môn khoa học khác là ở chổ nó
là khoa học chung nhất về thế giới mà chủ yếu là dựa vào các thành tựu của khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội để ngày càng hoàn thiện mình cho " khoa học".
Do vậy triết học cũng tác động trở lại hiện thực theo hai hướng lớn sau:
1. Vai trò
thế giới quan:
Nêu lên những
nội dung về nhận thức của con người trước thế giới: thế giới này là gì? vô hạn
hay hữu hạn... Những câu hỏi này và cách lý giải chúng nhìn bề ngoài người ta
nghĩ rằng : nó chẳng ăn thua gì với mình ! nhưng nó chính là nền tảng cho việc
nghiên cứu các khoa học khác : vật lý, hóa học, lượng tử, vũ trụ...
- Từ đó con
người sẽ trả lời được cho quan điểm " khả tri" hay bất khả tri của
con người nếu trả lời được thế giới này là vô hạn hay hữu hạn.
...
2. Vai trò
nhận thức luận triết học:
Từ việc
giài quyết các vấn đề phổ quát của triết học, duy vật hay day tâm, biện chứng
hay siêu hình... người ta rút ra được phương pháp luận cho nhận thức và từ đó cải
tạo thực tiễn.
Như vậy ta
thấy rằng triết học là môn khoa học chung nhất về thế giới. Đối tượng nghiên cứu
của nó cả tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mà nói đối tượng nghiên cứu
của nó như vậy thì ta thấy là triết học có vai trò trên tất cả các mặt của thế
giới, lý giải cả những vấn đề chung nhất ( định hướng) mà còn lý giải được những
vấn đề cụ thể nhất củ hiện thực( nhận thức luận).
Nếu có giải
quyết như vậy mới thấy hết vai trò của triết học. Cần nói thêm rằng muốn tìm
vai trò của một môn khoa học thì cần giải quyết nó là gì? đối tượng nghiên cứu
nó là gì ? cái đã.
Do điều kiện
thời gian và ngôn từ có hạn nên không thể diễn đạt hết, nhưng do tôi là người
say mê triết học nên trao đổi cùng các bạn.
Nếu có gì cần
trao đổi hay tranh luận 1 vấn đề nào đó của triết học hãy gời mail cho tôi :
vtlam_4ct@agu.edu.vn.
Vai trò của
triết học trong đời sống xã hội
Thứ tư, 03/10/2007 02:30' SA
Bài viết
trên cần chia vai trò của triết học rõ thành 2 vấn đề lớn: Chức năng thế giới
quan và chức năng phương pháp luận.
Cần chỉ rõ
vai trò của triết học trong đời sống thể hiện qua 2 chức năng trên.
vai tro
Thứ hai, 17/12/2007 12:54' CH
Trong bài
này, tác giả đề cập đến hai thái cực trái ngược nhau khi đánh giá vai trò của
triết học trong cuộc sống.
Thái cực thứ
nhất coi thường vai trò của triết học vì cho rằng:
1) Triết học
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá chung nên những kết quả nghiên cửu của
nó không có tác dụng thiết thực gì hết,
2) Triết học
không có phương pháp và trang thiết bị nghiên cứu riêng của mình như của khoa học
tự nhiên nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu triết học không được bảo đảm.
Thái cực thứ hai, ngược lại, lại tuyệt đối hoá vai trò của triết học, cho rằng
chỉ cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của
cuộc sống.
Tác giả đã
luận chứng cho quan điểm, theo đó, cả hai thái cực trên đều sai lầm vì để giải
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể của cuộc sông, cần kết hợp chặt
chẽ cả hai loại tri thức: Tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri
thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết
tình hình thức tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn).
Chủ đề Hội
thảo của chúng ta là ( Nhận thức lại vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn
cầu. Nói "nhận thức lại", trong trường hợp này, có nghĩa là nhận thức
trước đây là phù hợp với thời kỳ trước đây, nhưng ngày nay, trong kỷ nguyên
toàn cầu, nhận thức đó cần được bổ sung, hoàn thiện thêm cho phù hợp với bối cảnh
mới.
Muốn vậy,
có lẽ cần xem lại xem vai trò của triết học đã được đánh giá như thế nào?
Triết học,
như chúng ta biết, đã có lịch sử tồn tại suốt mấy ngàn năm với rất nhiều hệ thống,
trào lưu, trường phái khác nhau. Mặc đầu vậy, theo nhận xét của Viện sĩ
T.I.Ôiderman - nhà nghiên cứu lịch sử triếthọc nổi tiếng của Liên Xô trước đây
và Cộng hoà Liên bang Nga ngày nay - thì cho đến nay, hầu như không có một định
nghĩa nào về triết học được mọi người thừa nhận. Sự thống nhất ý kiến giữa các
nhà triết học vĩ đại về một định nghĩa triết học nào đó là hết sức hiếm hoi, gần
như là một ngoại lệ. Song, cũng giống như trong lĩnh vực văn hoá, với trên 300
định nghĩa khác nhau, nhưng không vì vậy mà văn hoá không phát triển. Triết học
cũng thế. Tuy hiện chưa có định nghĩa nào được mọi người thừa nhận, nhưng triết
học cũng không vì vậy mà không tiếp tục tồn tại và phát triển, không tiếp tục
xuất hiện thêm các hệ thống, trào lưu, trường phái mới.
Triết học,
ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù tồn tại ở phương Đông hay
phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường phái rất khác nhau,
nhưng nội.đung cất lõi của triết học bao giờ cũng bao gồm những quan điểm lý luận
chung nhất, những lời giải đáp có luận chứng (dù được tán thành hay không được
tán thành) cho những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, về vị
trí của con người trong thế giới đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên
và với bản thân con người. Trong triết học, người ta luôn tìm thấy những biện
luận, phán xét suy tư, những băn khoăn, trăn trở cùng những lời giải đáp cho
các câu hỏi về số phận của cá nhân con người trước thiên nhiên bao la, về nguồn
gốc cùng những bí ẩn của thiên nhiên bao la ấy, những sức mạnh, những lực lượng
chi phối nó và chi phối cuộc sống của chính bản thân con người, về cuộc sống và
cái chết của họ... Những lời giải đáp ấy, dù là khác nhau trong các hệ thống,
trào lưu, trường phái triết học khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất
định về thế giới mà trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống,
trào lưu, trường phái triết học đó.
Song, bất cứ
hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm vụ là lý giải về thế
giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải ấy, triết học trở thành cái
đinh hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành cái định hướng cho con
người trong hành động, triết học thực hiện một chức năng khác - chức năng
phương pháp luận.
Về nguyên tắc,
giá trị định hướng này của triết học không khác với giá trị định hướng của các
nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận của các bộ môn khoa học chuyên ngành nào
đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực, chẳng hạn, không khác với
giá trị định hướng của định luật bảo toàn và chuyền hoá năng lượng, của quy luật
giá trị... Cái khác chỉ là ở chỗ, vì các nguyên lý, các khẳng định của triết học
là kết quả nhận thức những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất
của cả tự nhiên, xã hội lẫn tư duy, cho nên chúng có tác dụng định hướng không
phải chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy như trong trường hợp các nguyên
lý, quy luật do các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các
nguyên lý, các khẳng định triết học ấy giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên
cứu và hoạt động cải biến sự vật bao giờ cũng có được một lập trường xuất phát
nhất định. Lập trường xuất phát ấy giúp cho chủ thể hành động thấy trước được
phương hướng vận động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản
mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là nó
giúp cho con người xác định được về đại thể con đường cần đi, có được phương hướng
đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những mò mẫm giữa một khối những
mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp mà không có tư tưởng dẫn đường. Xuất
phát từ một lập trường triết học nhất định, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn một
phương hướng giải quyết vấn đề theo một cách thức nhất định, và xuất phát từ những
lập trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương
hướng và cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là,
việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đấy sẽ không
chi đơn thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định,
một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp
nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.
Khẳng định
trên đây cho thấy triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược
lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một
lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết
đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập
trường triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Chính ở đây thể hiện giá trị đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức
năng phương pháp luận của triết học. Tiếc rằng, giá trị định hướng này hiện nay
chưa được khai thác triệt để. Có lẽ chính vì vậy mà còn có những sự đánh giá
chưa thoả đáng về vai trò của triết học trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc
sống.
Sự đánh giá
chưa thoả đáng đó thể hiện trước hết ở thái độ coi thường vai trò của triết học.
Những người giữ thái độ này cho rằng, vì triết học nghiên cứu và giải quyết những
vấn đề quá chung, nên những kết quả nghiên cứu của nó chẳng có tác dụng thiết
thực gì hết?
Ý kiến trên
đây, trong chừng mực nhất định, có căn cứ của nó, vì trong nhiều trường hợp,
khi giải quyết những vấn đề cụ thể, những người làm công tác thực tiễn không thể
tìm thấy ở những người làm công tác triết học một câu trả lời cụ thể. Trong khi
đó, trong hoạt động thực tiễn, con người lại bắt gặp và buộc phải giải quyết
trước hết chính những vấn đề hết sức cụ thể này. Vậy, phải chăng ở đây, tri thức
triết học là vô ích?
Không! Mặc
dầu những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ
cũng là những vấn đề hết sức cụ thể, nhưng để giải quyết những vấn đề cụ thể ấy
một cách có hiệu quả, không một ai có thể lảng tránh việc giải quyết những vấn
đề chung hay xuất phát từ lời giải đáp đã có về những vấn đề chung liên quan với
các vấn đề cụ thể đó. A.Anhxtanh đã từng nhận xét vào năm 1954: "Những khó
khăn mà nhà vật lý hiện nay đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã buộc ông
ta phải đề cập đến những vấn đề triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý của
các thế hệ trước". M.Plank cũng có nhận xét tương tự: "Một tập hợp những
sự kiện mới càng rối rắm bao nhiêu, các tư tưởng mới càng nhiều hình nhiều vẻ
bao nhiêu thì nhu cầu phải có một thế giới quan liên kết lại càng cảm thấy trở
nên bức thiết bấy nhiêu. Xu hướng tìm đến thế giới quan liên kết này có ý nghĩa
lớn lao không chỉ đối với vật lý học, mà còn đối với toàn bộ khoa học tự
nhiên". Như vậy, khi đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể của hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ vấp phải
những vấn đề chung, trong đó có những vấn đề triết học mà việc giải quyết
chúng, là cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Những lời giải đáp tìm
được ở đây, trong lĩnh vực triết học, là sự đóng góp rất thiết thực vào việc giải
quyết những vấn đề hết sức cụ thể ấy chứ không phải nằm bên lề của việc giải
quyết những vấn đề đó.
Tuy nhiên,
không nên hiểu sự đóng góp này một cách giản đơn. Không nên hiểu hiệu quả của
nghiên cứu triết học như hiệu quả nghiên cứu của các bộ môn khoa học kỹ thuật,
càng không nên hiểu nó như hiệu quả của hoạt động sản xuất trực tiếp. Các kết
luận mà nghiên cứu triết học đạt tới không phải là lời giải đáp trực tiếp, cụ
thể cho từng vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà, như đã nói trên,
nó là cơ sở cho việc tìm kiếm những lời giải đáp trực tiếp, cụ thể ấy. Chẳng hạn,
kết luận mới của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam: "Lực lượng sản xuất bị
kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất,, chính là cơ sở cho việc xác định hàng loạt
chính sách mới, đúng đắn hơn trong nhiệm vụ cải tạo xã hội và phát triển kinh tế
trong suất quá trình đổi mới. Trên đây chỉ là một trong rất nhiều thí dụ cho thấy
hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị đinh hướng cho hoạt động
thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết luận chung, có tính khái
quát cao mà nó đạt tới chứ không phải là những lời giải đáp cụ thể cho từng trường
hợp cụ thể.
Một lý do nữa
đã góp phần làm xuất hiện thái độ coi thường vai trò của triết học đó là sự
nghi ngờ về tính chân lý của các khẳng định triết học. Người ta đặt câu hỏi:
tri thức triết học có đáng tin cậy không khi nó đóng vai trò là cái định hướng
cho con người trong hoạt động thực tiễn? Vấn đề là ở chỗ, trong thời kỳ cổ đại,
khi các khoa học chuyên ngành chưa phát triển, thậm chí chưa xuất hiện, con người
có thể bằng lòng với lời giải đáp của triết học đối với các vấn đề mà con người
quan tâm về thế giới xung quanh mình. Nhưng, với sự xuất hiện và phát triển, thậm
chí phát triển mạnh mẽ của các khoa học chuyên ngành, thì con người không còn
thoả mãn với những câu trả lời của triết học được nữa. Tại sao vậy?
Trước hết,
vì các khẳng định của khoa học phải được kiểm tra bằng các tài liệu thực nghiệm.
và về nguyên tắc, có thể bị thực nghiệm bác bỏ. Trong khi đó, các khẳng định của
triết học không thể kiểm tra được bằng thực nghiệm và cũng không bác bỏ được bằng
thực nghiệm (chẳng hạn, không thể làm được như thế với các luận điểm như vật chất
có trước, ý thức có sau, với quan điểm của Hêghen nói rằng cơ sở phát triển của
giới tự nhiên là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối…).
Thứ hai,
triết học không có phương pháp nghiên cứu riêng của mình, trong khi đó các khoa
học tự nhiên đùng các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại với sự trợ giúp
của các phương tiện hiện đại nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu đạt được
được bảo đảm.
Những ý kiến
nhận xét trên đây, trong chừng mực nhất định, cũng có căn cứ của nó, vì đúng là
triết học không có trong tay mình một phương tiện kỹ thuật nào, một thiết bị
quan sát, thí nghiệm nào để tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu và trên cơ
sở đó, tiến tới khám phá những bí ẩn của sự vật, hiện tượng mà mình nghiên cứu.
Vậy, triết học dựa vào đâu và làm cách nào để đi tới chân lý?
Trên cơ sở
phân tích và khái quát hoá đặc điểm nhận thức của triết học trong suốt quá
trình phát triển lịch sử của nó, nhiều tác giả rút ra kết luận rằng, triết học
tự bản thân nó không trực tiếp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ
thể, nhưng nó sử dụng các kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo
thực tiễn đã được ghi lại trong các khái niệm, lý thuyết của các bộ môn khoa học
chuyên ngành khác, được thể hiện trong các tác phẩm vặn học, nghệ thuật, các
chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ... Tất cả những cái đó tạo nên "nền tài liệu thực
nghiệm" mà xuất phát từ đấy, triết học đi tới các phát hiện của mình.
Triết học
đi tới các phát hiện đó bằng cách nào? 'Có tác giả cho rằng bằng tư duy lý luận,
tác giả khác lại cho rằng bằng khái quát hoá lý luận, số thứ ba cho rằng bằng
luận giải (interprêtaxia)... Chính bằng cách đó, các kết luận triết học được
rút ra và lại quay trở lại .phục vụ cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo
thực tiễn.
Từ kinh
nghiệm nghiên cứu vật lý học của mình, M.Bom cho rằng, vật lý học của thực tiễn
không? Đó là những vấn đề đặt ra rất cần được nghiên cứu, giải quyết. Song, dù
thế nào chăng nữa, chúng tôi vẫn nghĩ rằng, có lẽ cùng với việc sử dụng các
phương pháp tư duy lý luận hay khái quát hoá lý luận… như đã kể trên, nên chặng,
việc nghiên cứu triết học cần được kết hợp với các nghiên cứu khoa học chuyên
ngành, sử đụng phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành ấy để đưa khách thể
nghiên cứu vào tình huống nghiên cứu đã được lựa chọn một cách có chủ đích, để
buộc khách thể phải trả lời câu hỏi của người nghiên cứu. Hy vọng rằng bằng
cách làm ấy, chúng ta có thể làm cho các kết quả nghiên cứu của chúng ta có cơ
sở hơn, đáng tin cậy hơn, thuyết phục hơn chăng! Điều này càng đặc biệt quan trọng
trong kỷ nguyên toàn cầu, kỷ nguyên của những vấn đề liên quan đến toàn cầu mà
việc giải quyết chúng đòi hỏi con người phải vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp,
cục bộ, địa phương, quốc gia để tiến tới tầm nhìn toàn cầu, một tầm nhìn không
thể không đòi hỏi phải có sự tham gia của triết học.
Bên cạnh
thái độ coi thường vai trò của triết học - một thái độ rất tiếc rằng, hiện nay
vẫn hiện diện ở nơi này, nơi kia, trong lĩnh vực hoạt động này hay khác - lai
có một thái độ khác: thái độ tuyệt đối hoá vai trò của triết học, nghĩ rằng chỉ
cần nắm được triết học thì lập tức sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể
của thực tiễn. Có nơi, có lúc, vì quá nhấn mạnh vai trò của triết học nên đã
gây ra ở một số người ảo tưởng rằng, triết học là cái chìa khoá vạn năng, chỉ cần
nắm được nó là tự khắc sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Có nơi, có lúc, với lòng
nôn nóng muốn đưa triết học vào phục vụ hoạt động thực tiễn, các cán bộ triết học
đã hăng hái lao vào nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn quá cụ thể chỉ
với những tri thức triết học chung mà quên mất rằng, để có thể tìm ra lời giải
đáp đúng đắn cho những vấn đề hết sức cụ thể, bên cạnh những tri thức lý luận
chung, trong đó có tri thức triết học, còn cần có hàng loạt tri thức khác nữa,
như sự am hiểu tường tận về tình hình thực tế liên quan đến vấn đề cụ thể đang
được xét trong một bối cảnh không gian - thời gian nhất định, sự hiểu biết sâu
sắc về nghề nghiệp, đặc biệt là sự nhạy cảm thực tiễn, một sự nhạy cảm chỉ có
được qua quá trình đào luyện, lăn lộn lâu năm trong nghề. Thiếu những cái vừa
nói, không một nhà triết học uyên bác nào có thể tìm ra được một lời giải đáp
đúng đắn nào cho bất cứ một vấn đề cụ thể nào của cuộc sống, cho dù đó là một vấn
đề đơn giản nhất đi nữa.
Như vậy, để
có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và
vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: hoặc
là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, dễ bằng
lòng với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu
nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối
hoá vai trò của triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng một cách máy
móc những nguyên lý, những quy luật, những tri thức triết học chung mà không
tính đến tình hình cụ thể đó không nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường
hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi bị thất bại.
Kết hợp chặt
chẽ cả hai loại tri thức trên đây tri thức chung (trong đó có tri thức triết học
và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu
biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực
tiễn) - đó là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động
cụ thể của mình.
Đánh giá bài viết?