Sai lầm, rủi ro trong khoa học phương Tây và đổi mới tư duy về khoa học ở Việt Nam (p.2)
Lê Ngọc Hùng
Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện xã hội học, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Tạp chí Triết học
4. Dân chủ hoá trong khoa học và tinh thần trách nhiệm công
dân của nhà khoa học
Việc thừa nhận quyền được mắc phải những sai lầm nhất định
trong khoa học - những sai lầm thuần tuý khoa học, không có nghĩa là khuyến
khích các nhà khoa học hay các cơ quan khoa học đưa ra những phế phẩm khoa học.
Khi nói đến quyền là nói đến nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của nhà khoa học. Một
chủ thể có quyền hành động thì chủ thể đó có trách nhiệm với hành động đó, bởi
đơn giản là hành động đó là hành động của chủ thể đó chứ không phải của ai
khác. Việc tuyên truyền pháp luật và nâng cao đạo đức nghề nghiệp của các nhà
khoa học là rất cần thiết. Nhà khoa học là người có khả năng, có quyền và có
trách nhiệm tìm ra chân lý và chỉ được phép nói sự thật và dũng cảm bảo vệ sự
thật. Những tấm gương xả thân vì chân lý khoa học của Socrat, Copernicus,
Galileo và nhiều người khác vẫn được các nhà khoa học ngày nay ngưỡng mộ noi
theo.
Xây dựng văn hoá trong giao tiếp khoa học, văn hoá trong
tranh luận khoa học cũng rất quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ, vẫn còn có hiện
tượng biến tranh luận khoa học thành cuộc mạt sát cá nhân, nguy hại hơn là hiện
tượng biến tranh luận khoa học thành sự quy chụp, thành các vụ việc hình sự
hoá, hành chính hoá. Trên thế giới, hiện tượng này đã từng xảy ra mà hậu quả của
nó là cả một lĩnh vực khoa học như di truyền học bị thụt lùi. "Vụ đàn áp
di truyền học do Trofim Denisovich Lưxenko, Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học nông
nghiệp Liên Xô, phát động trên đất nước Xô viết tạm nửa thế kỷ trước đây là bài
học cay đắng nhất về hậu quả của chủ nghĩa học phiệt trong thế kỷ XX”(9).
Lưxenko đã gán cho các nhà di truyền học theo trường phái Mendel và Morgan cái
tội danh "truyền bá chủ nghĩa duy tâm tư sản phản động" để khủng bố họ
bằng cách bắt họ phải làm kiểm điểm, phải thừa nhận sai lầm, ai không nghe thì
bị đuổi việc và hậu quả là "gần ba ngàn nhà sinh học bị sa thải trong thời
điểm đó" và kéo lùi toàn bộ nền sinh học của đất nước Xô viết"(10).
Không chỉ trong khoa học tự nhiên, mà cả trong một số khoa học xã hội và nhân
văn cũng xảy ra tình trạng thụt lùi, thậm chí là phá sản, ví dụ như khoa học xã
hội học ở Liên Xô. Bởi lẽ, đúng như một tác giả đã viết trong cuốn sách bàn về
lịch sử xã hội học ở Liên Xô, "trong chế độ độc tài, người ta lẫn lộn
chính trị và khoa học, chính quyền chà đạp nguyên tắc tự do khoa học, tự do
sáng tạo. Không khí quan liêu và mệnh lệnh trong khoa học được phục hồi dẫn đến
tình trạng nhà nước quyết định "màu sắc" của chân lý, coi thường quá
trình sáng tạo tìm ra chân lý"(11).
Khi thừa nhận vai trò của khoa học - công nghệ với tư cách lực
lượng sản xuất thì một sự rủi ro về mặt nhận thức xuất hiện là phải coi tri thức
là một công cụ, thậm chí là phương tiện sản xuất. Đó là một sự nhận thức đầy
tính rủi ro, bới nó có vẻ trái với quan niệm thông thường rằng tư liệu sản xuất
là nhà máy, xí nghiệp, là vốn - tư bản hay những thứ khác. Bất chấp một số tác
giả không thừa nhận tri thức là một loại công cụ sản xuất, một loại tư liệu sản
xuất, trên thế giới không ít tác giả đã viết nhiều sách nói về loại tư liệu sản
xuất đặc biệt này. Một tác giả nghiên cứu nó một cách không hề rủi ro và viết
lên những nhận định cũng không hề rủi ro, ví dụ, là "công cụ sản xuất mà
nay người công nhân nắm được để làm chủ lấy mình không giống thứ công cụ bỏ
trong thùng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời công nghiệp ống khói. Nó
là thứ vận dụng nằm trong đầu óc của công nhân - vật dụng ấy là công cụ của xã
hội tương lai, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực. Nó là tri thức"(12).
Cách nói này có thể là một rủi ro, một sai lầm, nếu được xem xét trong một tình
huống lịch sử ở một xã hội khác. Nhà khoa học cũng cần phải dũng cảm trên con
đường quanh co, gian khổ với đầy những thách thức và rủi ro trí tuệ để tiến gần
tới chân lý như C.Mác đã từng nói tới. Không thụ động chờ đợi sự bảo vệ một chiều
từ phía thể chế pháp luật, nhà khoa học cần dũng cảm tự bảo vệ chân lý khoa học.
Về điều này, các thế hệ khoa học ngày nay cần học tập ở C.Mác. Học tập thái độ
nghiêm túc khoa học, tinh thần sáng tạo, bản lĩnh khoa học và năng lực biết lắng
nghe và biết bảo vệ chính kiến khoa học. Trong phần đầu bộ Tư bản của mình,
C.Mác đã tuyên bố rằng, ông chỉ lắng nghe những ý kiến phê phán có tính khoa học
và có tính xây dựng, còn các loại ý kiến khác thì ông sẽ ứng xử một cách đầy tự
tin và bản lĩnh khoa học: "Đường ta, ta cứ đi, ai nói gì cũng mặc"(13).
5. Sai lầm thuần túy khoa học và đổi mới tư duy về khoa học ở
Việt Nam
Trên thực tế, ở nước ta, sai lầm thuần tuý khoa học xảy ra
không nhiều, thậm chí là rất ít, còn lại là những sai lầm gắn liền với những rủi
ro trí tuệ cá nhân và các tai nạn chuyên môn, nghề nghiệp liên quan tới quan hệ
quản lý trong khoa học. Tình hình này trở nên phức tạp do những hạn chế lịch sử
liên quan tới sự sai lệch xã hội và những sai lệch đạo đức nghề nghiệp cùng với
kiểu quản lý quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh trong khoa học.
Chỉ có thể nêu khái quát một thực tế là, trong những năm trước
và ngay sau đổi mới ở nước ta, trong giới nghiên cứu kinh tế học ở Việt Nam, những
bài viết nói đến kinh tế thị trường, sản xuất tư nhân, quy luật giá trị, lao động
làm thuê đều dễ bị quy kết về mặt lập trường, quan điểm là thoái hoá, biến chất,
là nhiễm phải nọc độc của chủ nghĩa tư bản, là tiếp tay cho thế lực phản động
quốc tế(14). Sau này, nhờ đường lối đổi mới nói chung và đổi mới tư duy khoa học
nói riêng, những quan niệm như vậy mới được coi là phù hợp và đặc biệt, hàng loạt
sách giáo khoa và sách chuyên khảo về kinh tế học của các nước tư bản chủ nghĩa
đã được dịch ra tiếng Việt để cả thầy và trò vừa học tập, vừa dạy học trong các
viện nghiên cứu và trong các trường đại học trên cả nước. Những năm gần đây ở
Việt Nam, bầu không khí dân chủ trong khoa học đã được cải thiện rõ rệt. Nhiều
cuộc tranh luận khoa học đã diễn ra sôi động, thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều
người. Thông tin trở nên minh bạch hơn, các nhà khoa học có điều kiện giới thiệu
các sản phẩm khoa học và dư luận xã hội được quyền phán xét, đồng tình hay phản
đối. Những cuộc bàn cãi sôi nổi xung quanh nội dung, chương trình cải cách giáo
dục là một ví dụ. Những bài viết và các ý kiến của các nhà khoa học phê phán mạnh
mẽ những sai sót trong một số cuốn sách giáo khoa là một ví dụ. Cuộc tranh cãi
của các giáo sư, tiến sĩ và các nhà khoa học về một số tư liệu lịch sử Việt Nam
là một ví dụ nữa. Điều nổi bật cần ghi nhận trong các cuộc tranh luận khoa học
này là tinh thần dân chủ được khơi dậy và được tôn trọng. Sự can thiệp của
"bàn tay quản lý hành chính" vào phân xử đúng sai trong khoa học
không còn thô bạo nữa. Một số nhà khoa học khi nhớ lại và suy ngẫm về thời kỳ Đổi
mới vừa qua đã ghi nhận là "các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta nói
chung đã không cấm đoán, trừng trị và cũng ít gây khó khăn ngăn cản sáng kiến của
nhân dân, trái lại nói chung đã biết phát hiện, chấp nhận, nâng cao sáng kiến của
nhân dân thành chính sách của Đảng và Nhà nước"(15). Điều này cũng đúng với
lĩnh vực khoa học và nó chứng tỏ rằng, sự đổi mới tư duy quản lý khoa học đang
tiến theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Không một nhà khoa học nào có thể tránh mắc phải sai lầm thuần
tuý khoa học, bởi nếu không thế thì họ không phải là nhà khoa học. Điều này
cũng giống như sự khẳng định rằng, không ai sống, làm việc mà không mắc phải
sai sót, chỉ trừ có người nằm dưới mộ và người không làm gì mà thôi. Vậy tại
sao chúng ta lại không thừa nhận cái quyền được mắc phải những sai lầm thuần
tuý khoa học để nhờ vào việc phát hiện và sửa các sai lầm khoa học mà tiến mãi
đến gần chân lý? Câu trả lời liên quan tới quan niệm và thói quen quản lý trong
một xã hội đang chuyển đổi và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một
số cán bộ quản lý, trong đó có cả nhà khoa học vẫn chưa thực sự làm quen với
các quan niệm về công bằng, dân chủ và tự do trong khuôn khổ pháp luật, khi họ
vẫn quen áp đặt những chuẩn mực quản lý hành chính vào phán xét sự đúng sai, phải
trái trong khoa học. Điều này đã dẫn đến một thực tế mà Nghị quyết của Đảng đã
chỉ rõ là: không ít nhà khoa học e ngại, thiếu tự tin, sợ bị quy kết về quan điểm,
né tránh những vấn đề liên quan đến chính trị(16). Có thể nói, cơ chế bao cấp,
cơ chế xin - cho vẫn còn có chỗ trú ngụ cuối cùng của nó trong chính cái tầng
chóp bu quản lý hành chính đối với lâu đài khoa học cũng như trong đầu óc của một
bộ phận giới trí thức.
Đổi mới tư duy trong khoa học hiện nay đã đạt tới những
trình độ nhất định, đáng ghi nhận trong việc ứng phó với những sai lầm, rủi ro
và các sai lệch trong khoa học, ví dụ như sau:
Thứ nhất, những sai lệch đạo đức mà điển hình ]à "gian
lận và ăn cắp" trong khoa học có xu hướng bị dư luận xã hội, nhất là cộng
đồng khoa học, lên án gay gắt và bị xử lý, mặc dù chưa triệt để, bằng cách cách
chức và thuyên chuyển công tác đối với những người vi phạm.
Thứ hai, đối với những sai lệch xã hội, tức là những sai lệch
do hạn chế của lịch sử, ví dụ như những hành vi sai lệch do căn bệnh hành chính
hoá khoa học" gây ra thì đổi mới tu duy đang hướng vào "phi hành
chính hoá" khoa học và tiến tới "xã hội hoá" khoa học.
Thứ ba, đối với loại sai lầm thuần tuý khoa học: cần phải thừa
nhận là thật không dễ dàng nêu ra được ví dụ nào rõ ràng, cụ thể (tương tự như
các ví dụ ở Liên Xô) có sức thuyết phục về những sai lầm thuần tuý khoa học, nhất
là trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam trong thời gian qua
(trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật thì có thể nêu ví dụ là những vụ án văn
chương vào khoảng giữa thế kỷ XX). Chỉ có thể tạm nêu một trường hợp, dù không
trực tiếp liên quan tới sai lầm thuần tuý khoa học, nhưng được nêu công khai
trên báo chí nên có thể gợi ra nhiều sự suy luận mà không sợ bị rủi ro như sau:
Một phóng viên hỏi một nhà khoa học về sự rủi ro trong nghề sử học. Ông trả lời:
"Về cái sự khôn ngoan thì tôi chỉ nói thế này này: người làm sử phải nói,
mà cái đầu còn nằm trên cổ thì mình mới nói được. Đầu lìa khỏi cổ thì nói cái
gì? Bây giờ phải nói để người ta nghe cái đã, chứ anh không thể nói để người ta
không nghe. Có người hỏi tôi là ông thấy thế nào, tôi bảo tôi rất thoả mãn, vì
tôi có một công chúng để tôi nói. Họ nghe và họ có thể phê phán, đồng tình hay
không đồng tình"(17).
Nhiều lý do để khó có thể kể ra được một sự kiện lớn nào về
sai lầm thuần tuý khoa học của Việt Nam trong thời gian qua, trong đó nổi bật một
lý do là: trong khoa học - công nghệ có quá ít các sáng chế được đăng ký quốc tế,
quá ít các công trình được công bố ở các tạp chí có uy tín trên thế giới; trong
khoa học xã hội và nhân văn còn thiếu những công trình lý luận có khả năng dự
báo, định hướng, "chưa có những công trình sáng tạo lớn, nhiều công trình
còn sơ lược, sao chép"(18). Trong tình hình như vậy, thực khó có thể mắc
sai lầm thuần tuý khoa học, bởi như một quy luật, không làm gì hoặc làm rất ít
mới không mắc sai lầm, nhất là những sai lầm thuần tuý chuyên môn.
Đối với các loại sai lệch nêu trên, đổi mới tư duy về khoa học
của Việt Nam đã đạt tới một trình độ mới và thể hiện đặc biệt rõ trong Nghị quyết
gần đây nhất của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức mà trong đó, với tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, hàng loạt các loại hạn chế, yếu kém và nguyên nhân đã
được vạch rõ, ví dụ như vừa nêu ở trên. Đổi mới tư duy về khoa học thể hiện rõ ở
quan điểm chỉ đạo của Đảng là: "Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hiện nay, ở nước
ta, năng suất lao động khoa học rất thấp, nhất là khi so sánh với nhiều nước
xung quanh. Trong tình hình như vậy, vấn đề về quyền mắc phải những sai lầm, rủi
ro nhất định trong khoa học có vẻ như chưa phải là vấn đề cấp bách. Nhưng sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế thế giới đòi hỏi phải tăng cường khuyến khích các nhà khoa học dám
nghĩ, dám làm, dám sáng tạo, chấp nhận rủi ro và cạnh tranh lành mạnh trong
nghiên cứu khoa học, trong việc công bố các sản phẩm khoa học mà không sợ mắc
phải sai lầm thuần tuý khoa học.
Việc ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền được mắc phải những
sai lầm nhất định trong khoa học, tức là mắc phải những sai lầm thuần tuý khoa
học không có nghĩa là khuyến khích việc phạm phải các sai lầm đó. Trái lại, nó
nhắc nhở và thúc đẩy các nhà khoa học phải quan tâm tới việc tìm cách tránh các
sai lầm và sớm phát hiện ra các sai lầm để có thể sửa chữa kịp thời. Việc thừa
nhận và bảo vệ quyền được phạm phải sai lầm nhất định trong khoa học có ý nghĩa
quan trọng trong việc khuyến khích, bảo vệ tư duy và nỗ lực sáng tạo của các
nhà khoa học. Đồng thời với việc thừa nhận quyền là sự ràng buộc trách nhiệm của
nhà khoa học đối với hành vi nhận thức khoa học của họ.
Tinh thần pháp luật cởi mở theo hướng "công dân được
làm những gì mà luật pháp không cấm", nhưng để thống nhất hành động trên
thực tế thì việc có những quy định pháp lý về vấn đề này là quan trọng và cần
thiết để góp phần tạo ra môi trường tự do, dân chủ và cởi mở trong nghiên cứu
khoa học. Các giải pháp đảm bảo dân chủ, tự do và quyền sai lầm trong khoa học
phải xuất phát từ bản chất "có thể sai lầm" của tri thức khoa học và
quá trình nghiên cứu khoa học.
Tri thức khoa học là loại tri thức có thể sai, thậm chí có
thể chứng minh được là sai trong những trường hợp nhất định này và đúng trong
những trường hợp nhất định khác, và trong các trường hợp khác thì chưa xác định
– bất định. Quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình tiếp cận vô hạn tới chân
lý khách quan. Đó cũng là quá trình thử và sai, trong đó các sai lầm luôn được
phát hiện và sửa chữa để ngày càng tiến gần hơn và tiến gần mãi tới chân lý. Với
tinh thần như vậy, khoa học với nghĩa là hệ thống tri thức và quá trình hoạt động
luôn chứa đựng yếu tố sai lầm. Chắc sẽ không có gì là quá đáng khi một số nhà
khoa học luận nổi tiếng trên thế giới nói rằng khoa học là một quá trình liên tục
sửa chữa các sai lầm. Vậy, cả trên phương diện lý luận khoa học lẫn trên thực tế,
việc mắc phải những sai lầm trong khoa học là một hiện tượng bình thường, tự
nhiên. Do đó, việc đảm bảo quyền được mắc phải những sai lầm nhất định - những
sai lầm thuần tuý khoa học đã từng bước được thừa nhận và bảo vệ trên thực tế ở
các nước phát triển. Nhà khoa học có quyền mắc phải sai lầm khoa học, đồng thời
phải có trách nhiệm sửa chữa những sai lầm đó, có quyền và trách nhiệm thay thế
một quan niệm nhiều sai lầm này bằng một quan niệm ít sai lầm hơn và cứ thế tiến
gần vô hạn tới chân lý.
Các biện pháp cụ thể của việc thừa nhận và bảo vệ quyền được
mắc phải sai lầm nhất định trong khoa học được phản ánh trong các quy định về
quyền bảo lưu ý kiến, quyền tự chịu trách nhiệm cá nhân về mặt khoa học và quyền
tự do, bình đẳng trong việc phát hiện, bày tỏ ý kiến về những vấn đề khoa học.
Vấn đề thừa nhận và bảo vệ quyền được mắc phải những sai lầm
nhất định trong khoa học đã xuất hiện và đang được giải quyết trên cơ sở của đổi
mới tư duy pháp luật và tư duy quản lý khoa học trước yêu cầu của đổi mới kinh
tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Chỉ với
tinh thần như vậy thì khoa học mới thực sự trở thành lực lượng sản xuất của xã
hội nước ta trên đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nói tóm lại, các sai lầm
nhất định trong khoa học là những sai lầm không cố ý, không vi phạm các chuẩn mực
pháp lý, không vi phạm các hành vi bị pháp luật nghiêm cấm trong khoa học và
công nghệ. Đó là những sai lầm thuần tuý khoa học bắt nguồn từ bản chất của tri
thức khoa học và quá trình nhận thức khoa học. Một điều nhấn mạnh ở Việt Nam hiện
nay là, tiếp tục đổi mới tư duy về khoa học để tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà khoa học thực sự tập trung vào hoạt động khoa học chứ không phải là các hoạt
động ngoài khoa học. Có như vậy thì quyền được mắc phải những sai lầm nhất định
trong khoa học mới thực sự có ý nghĩa và có giá trị thúc đẩy sự phát triển khoa
học góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, tự do và văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chú thích:
(1) Trong số các khoa học về tri thức nổi bật lên bộ môn xã
hội về tri thức. Đây là một chuyên ngành xã hội học tập trung vào tìm hiểu mối
quan hệ giữa tri thức và xã hội, tri thức và con người, biểu hiện ở cách thức
xã hội sản xuất ra tri thức và cách thức làm biến đổi xã hội và xã hội học về
khoa học.
(2) Thiết chế xã hội là hệ thống các quy tắc chính thức và
phi chính thức quy định, điều tiết hành vi, hoạt động của cá nhân và nhóm người.
(3)
A.F.Chalmers. What is this thing called Science?: an assessment of the nature
and status of science and its methods. 2nd Edition. Buckingham: Open University
Press, 1994, p.73.
(4) Gary
Becker: Nhìn cuộc sống từ giác độ kinh tế. Trong: Các thuyết trình tại lễ trao
giải thưởng Nobel về Khoa học kinh tế 1991-1995. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000, tr.79.
(5)
A.F.Chalmers. Ibid
(6)
V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Tiến bộ, Matsxcơva, 1981, tr.215.
(7) Karl
R.Poper. The logic of scientific discovery. London: Hutchinson, 1968, p.111
(8) Thomas
Kuhn. The Structure of Scientific Revolutions. Chicago: University of Chicago
Press, 1970, tr. 210. Norman K. Denzin. The Research Act: A theoretical
Introduction to Sociological Methods. New Jersey: Prentice Hall Inc.
(9) Vũ Cao
Đàm. Suy nghĩ về khoa học và giáo dục trong xã hội đương đại Việt Nam. Nxb Khoa
học kỹ thuật, IIà Nội, 2007, tr.103.
(10) Vũ Cao
Đàm. Sđđ., tr.l04.
(11) E.A.
Capitonov. Xã hội học thế kỷ XX: lịch sử và công nghệ. Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr.81.
(12) Alvin
Tomer. Thăng trầm quyền lực. Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002, tr.117.
(13) C.Mác
và Ph.Ăngghen. Toàn tập, 123. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 22.
(14) Đăng
Phong. Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975- l989.
Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008, tr.149.
(15) Đào
Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn (chủ biên). Đổi mới ở Việt Nam: nhớ lại và suy ngẫm. Nxb
Tri thức, Hà Nội, 2008, tr.17.
(16) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Công sản Việt Nam. Nghị quyết số 27 – NQ/ TU "Về xây
dựng đội ngũ tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước". Kỳ họp thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Hà Nội, tháng 7 năm
2008.
(17)"Tổng
thư ký Hội Sử học Dương Trung Quốc: Tôi sợ mình chỉ là một thứ cây cảnh".
Báo An ninh thế giới cuối tháng, số 30, tháng l.2004, tr.9.
(18) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd.
Đánh giá bài viết?