Kim Định: Cuộc đời và tư tưởng (P.2)
Hồ Phú Hùng
Văn hóa Nghệ An
Nguồn: http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/kim-dinh-cuoc-doi-va-tu-tuong/2.html
Giáo sư Kim
Định cho rằng nhờ khám phá ra con zéro (số không) mà Ấn Độ đã đẩy toán học đi một
bước thật xa, lập nên hệ thống thập phân và phát minh ra đại số. Sau này con số
zéro truyền sang Âu Châu qua ngả Ả Rập. Lúc ấy, không ai ngờ được ảnh hưởng của
con zéro đối với khoa học. Ngày nay, để đáp lại món quà khoa học kĩ thuật mà Âu
Châu đã tặng cho nhân loại, Á Châu sẽ lấy gì để đóng góp? Ông đề nghị, Á Châu
nên tiếp tục đóng góp con zéro một lần nữa, bởi vì về mặt tinh thần thì sự đóng
góp của nó sẽ còn cao quý hơn là đóng góp cho toán học trước đây. Với ông, dịch
phẩm Tibetan Yoga and Secret Doctrines (Yoga Tây Tạng và Bí Pháp Thượng Thừa),
chính là món quà quý báu mà học giả người Anh W. Y. Evant Wents đã đem về tặng
cho Châu Âu. Ông nhấn mạnh: “Tất cả nhắc lại con zéro đã nói trên kia, một con
zéro tinh thần hay là tâm đạo mà tôi cho là viên thuốc duy nhất có sức chữa được
bệnh trạng nhân loại hiện nay.”(7)
Tâm Tư được
xuất bản năm 1970, là gạch nối giữa Nhân Bản và Chữ Thời. Nhân Bản dẫn đến con
người toàn diện. Chữ Thời dẫn đến việc con người nhận ra cái tâm bao la như vũ
trụ của mình. Tâm Tư là khoa Siêu lý của Viễn Đông, gọi theo ngôn ngữ Tây
Phương là Siêu hình của Viễn Đông. Theo tôi, sở dĩ ông không dùng từ siêu hình,
bởi vì đã qua nhiều thế kỉ, nền triết học Âu Tây đã hiểu sai và dùng sai từ
siêu hình. Nhiều triết gia hiện đại của họ cho rằng siêu hình trong triết học của
Tây Phương bắt đầu từ Aristote trở về sau là thứ siêu hình không đích thực. Tâm
Tư là phương pháp suy tưởng bằng tâm; dùng ý tưởng để nhận biết sự thật, dùng
tình thâm để cảm nghiệm được vẻ đẹp và nuôi dưỡng tâm hồn, dùng chí khí để tu
luyện hòng thể nghiệm được chiều kích vũ trụ nơi mình và nhận ra được cái Toàn
Thể.
Đích điểm của
Tâm Tư là “triêu văn đạo”. Triêu văn đạo là nghe Đạo trong ánh bình minh nguyên
sơ, nghe được diệu âm từ miền sâu thẳm, tĩnh lặng. Khi đã ngộ đạo, tâm hồn con
người an nhiên tự tại và rộng mở đến vô biên, tình yêu thì tràn đầy và tuôn
trào lai láng. Vũ trụ không còn là cái gì xa cách, riêng rẽ mà đã trở thành một
với mình.
Để chuẩn bị
cho sự ra đời Việt Lý Tố Nguyên, ông cho xuất bản Căn bản triết lý trong văn
hóa Việt Nam. Tác phẩm nàylà bước đầu cho hành trình trở về nguồn của ông. Ở
Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam, ông đã tìm ra được bóng dáng hồn nước
qua lễ gia tiên, qua tiếng vọng của Văn Tổ và Văn Miếu và cũng nêu lên được sự
khác biệt cơ bản giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Phương pháp huyền
sử cũng bắt đầu manh nha tại đây. Đoạn viết sau sẽ cho chúng ta thấy ông đã bắt
đầu đề cập đến nguồn gốc văn hóa và dân tộc Việt Nam:“Nếu ta đưa mắt tinh thần
nhìn về quãng thời gian cách đây chừng 4000 năm mà nhìn đoàn người Lạc Việt di
cư từ Hồ Động Đình, hay bờ sông Dương Tử đểtiến xuống phía nam, thì chúng ta chắc
thấy trong quang gánh của những tổ tiên xa xăm đã có quyển Kinh Dịch ít ra ở trạng
thái phôi thai. Lúc đó chữ Nho cũng còn đang trong giai đoạn hình thành: có lẽ
mới bỏ chặng thắt nút (kết thằng) để đi sang hình chữ con quăng mà ta thấy dùng
ở đời nhà Chu gọi là chữ khoa đẩu, sau đến đời Tấn Hán mới thay thế bằng chữ Lệ
như ta thấy hiện nay”(9)
Việt Lý Tố
Nguyên ra đời năm 1970, đánh dấu một giai đoạn sáng tạo vô cùng rực rỡ của ông.
Tác phẩm này là tiếng sấm báo động cho một cơn mưa lạ, vì thế nó đã thu hút được
sự chú ý của nhiều trí thức và sinh viên thời bấy giờ. Bằng ánh sáng của cổ sử,
của khảo cổ học và trực giác siêu việt của một bậc hiền triết, ông đưa ra những
kiến giải rất thuyết phục về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh việc tìm
về nguồn gốc của dân tộc, ông công bố rằng, dân tộc Việt Nam đã có một nền minh
triết sâu sắc và một nền văn hóa rực rỡ, khác hẳn với triết lí và văn hóa của
Trung Hoa. Ngoài ra, Việt Lý Tố Nguyên cònlà cuốn sách thuộc loại “triết lí lịch
sử” xuất hiện đầu tiên tại Việt Nam.
Trước khi
Việt Lý Tố Nguyên được xuất bản,trong lời bạt của Những dị biệt của hai nền triết
lý Đông Tây ông đã giới thiệu về nó như sau:
“Đây là quyển
sách then chốt cho tất cả các quyển khác trong bộ đã ra và sẽ ra, nó quan trọng
ngang với Chữ Thời về đàng sâu nhưng đi lối huyền sử nên dễ đọc hơn Chữ Thời rất
nhiều, vì nó vận dụng rất nhiều huyền thoại của Viễn Đông để soi dọi vào nguồn
gốc nước ta về các phương diện văn minh, văn hóa, dân tộc, thể chế, sử ký, địa
dư, phong tục, tập quán, lễ giáo v.v… Nó sẽ trả lời cho những vấn đề chưa ai
tìm được ra câu đáp: như dân tộc tính là gì? Đâu là những đặc tính của dân tộc
Việt Nam. Nền văn hóa Việt Nam có những gì phát huy… Những vấn đề này thiếu phần
đóng góp của triết lý sẽ không gặp được câu trả lời thỏa đáng, chẳng hạn tại
sao ca dao lại có địa vị quan trọngtrong văn chương Việt? Hoặc Việt tộc đã đóng
góp những gì cho nền văn hóa Viễn Đông? Ý nghĩa các danh hiệu nước ta (Xích Quỉ,
Văn Lang, Giao Chỉ…) ý nghĩa tết mồng 5 tháng 5… Việt Lý Tố Nguyên sẽ dẫn độc
giả vào những miền xa lạ mà cho tới nay chưa có học giả nào đặt chân đến, tuy vậy
rất thiết cận đến tiền đồ tổ quốc chúng ta.”(10)
Đến khi xuất
bản Việt Lý Tố Nguyên, ông còn giới thiệu thêm về tác phẩm này một lần nữa:
“Đây là
công trình của một cuộc khảo cổ khác thường, không dừng lại ở khảo cổ, ở bác học
nhưng phóng tầm mắt ra bên ngoài, bên trên, bên dưới khảo cổ, lịch sử, bác học
để cố tìm ra những nét căn bản chạy ngầm xuyên qua lịch sử nước nhà, những tính
chất có ngay từ đầu và sẽ còn lại mãi mãi với dân tộc, nên gọi là Tốtheo nghĩa
“bản lại cố hữu”.
Độc giả sẽ
nhận ra lối khảo cổ như trên chiếu rất nhiều tia sáng kỳ lạ vào con đường chúng
ta phải đi để đến đợt văn minh chân thực. Như thế sự quay về để học lại nguồn gốc
nước nhà với mọi khía cạnh văn minh, văn hóa, định chế, sử địa, văn chương…
không còn là một việc khảo cổ suông trong thư viện nữa nhưng chính là giúp vào
việc kiến quốc, tìm ra và củng cố tinh thần dân tộc, đặt nền tảng vững chắc nhất
cho nền quốc học mai ngày vậy.”(11)
Thiết tưởng,
những lời giới thiệu của ông về đứa con tinh thần yêu quý nhất của mình ở trên
đã nói rất rõ về nội dung của của nó. Phải chăng đây là tác phẩm tâm đắc nhất của
ông?
Cũng vào
năm 1970, ông cho ra đời tác phẩm Dịch Kinh Linh Thể. Theo nhận định chủ quan của
người viết, cuốn sách này tuy khá mỏng nhưng ẩn tàng một sức mạnh dị thường, bởi
nó đã kiến giải được phần thâm sâu và đặc sắc nhất của Kinh Dịch. Dịch Kinh
Linh Thể cònlà một tác phẩm về Kinh Dịch lạ lùng nhấttừ trước đến nay của người
Việt. Ông không lan man chú giải hết 64 quẻ Dịch và những phần khác trong bộ
kinh như những học giả khác mà chỉ dùng vài câu trong phần Hệ Từ và duy nhất một
quẻ Kiền để dẫn dắt người đọc đi thẳng vào phần cốt tủy của Kinh Dịch.
Khi nói về
Kinh Dịch, ông đưa ra một đề quyết động trời, có thể làm sửng sốt người đọc và
gây tranh cãi ở tầm cỡ quốc tế. Với ngôn từ của một Ki Tô hữu, ông đã dám khẳng
định rằng:
“Người Việt
có hai tội tổ tông truyền:
Một: quyển
Kinh Dịch là của người Việt
Hai: một số
người đọc thì lại đọc theo lối Tàu, lối Tây mà không biết đọc theo lối Việt
Nho.
Quyển này
nhằm rửa sạch hai tội đó.” (12)
Trước khi đọc
cuốn Dịch Kinh Linh Thể, tôi đã đọc các sách dịch và chú giải về Kinh Dịch của
Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, Nguyễn Duy Tinh. Khi đọc các vị này, tôi nhận thấy
Kinh Dịch cũng bình thường như bao sách khác, và nếu như vậy thì Kinh Dịch có
gì đặc sắc mà người ta lại ca ngợi. Khi đọc ông, tôi mới ngộ ra được cái tinh
hoa của Kinh Dịch. Ông đề nghị đọc Dịch một cách rất sáng tạo, đọc theo lối Kỷ
Dịch - đọc Dịch ở nơi thâm sâu của lòng mình. Nếu đọc Kinh Dịch, thực hành và
tu luyện theo cách này, con người sẽ đến cảnh giới nội thánh ngoại vương của
thánh nhân và có thể an bang tế thế.
Để tiếp nối
cuốn Nhân Bản,ông cho xuất bảnLạc Thư Minh Triết vào năm 1971. Theo tôi, đây là
hai tác phẩm rất then chốt, có thể nói là rất quan trọng, bởi vì nó bàn về tính
mệnh và cứu cánh của con người - đích điểm mà chúng ta cần phải đạt đến.
Trong Lạc
Thư Minh Triết, ông khuyến khích một đời sống tự lập, tự cường về mặt tinh thần,
ca ngợi và xưng tụng sự cô đơn. Trong sự xa vắng tiếng ồn ào của thế tục và rộn
rã của trần gian, con người cô đơn mới dễ dàng tìm lại cội nguồn chân thực của
mình, cội nguồn đó chính là Thần - Thần tính Nội tại. Cô đơn còn là cơ hội để
sáng tạo và xây dựng nên sức mạnh tinh thần, là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại.
Ông cho rằng, trong lịch sử loài người chưa có công trình vĩ đại nào mà không
được thai nghén trong cô đơn, cũng như không có đại nhân chân thực nếu không được
nuôi dưỡng trong cô đơn.
Dù không được
ông nói rõ ra nhưng tôi nghĩ rằng, tác phẩm này đã manh nha một nền Thần học Việt.
Lạc Thư Minh Triết có đôi chỗ bàn về những vấn đề siêu hình của Đông Phương mà
các cuốn trên chưa từng đề cập. Theo ông, cơn khủng hoảng của giáo hội Thiên
Chúa giáo hiện nay là do nền Thần học Tây Phương gây ra. Ông cho rằng, “muốn
thoát khỏi khủng hoảng thì cần trở về nguồn để tìm ra ý nghĩa chân thực của
Thánh Kinh khi mới vừa xuất phát, nghĩa là còn trong bầu không khí Đông
phương”(13).
Thay vì chọn
Thần học Thiên Chúa giáo để giải quyết vấn đề khủng hoảng tư tưởng và sự biến động
của thời đại, ông lại chọn nền Minh Triết của Lạc Việt (Lạc Thư Minh Triết),
nơi mà ông cho là sản sinh ra một nền triết lí nhân sinh tốt đẹp nhất và có thể
làm lối thoát cho sự bế tắc tư tưởng của con người Việt Nam hiện đại. Từ một
cái nhìn thấu triệt, ông tự mình thoát khỏi tư duy truyền thống của triết học
kinh viện và Thần học Thiên Chúa giáo.Lạc Thư Minh Triết chắcđã làm cho bề trên
của ông không vừa lòng, bởi vì tư duy của ông là tư duy vượt thoát, một tư duy
không nô lệ cho bất kì thế lực thần quyền nào. Tuy là linh mục nhưng sách của
ông không được phần đông Ki Tô hữu đón nhận một cách nồng nhiệt. Có thể nói rằng,
Lạc Thư Minh Triết là bức thông điệp của một linh mục Thiên Chúa giáo đã giác
ngộ được giá trị thâm sâu của văn hóa Đông Phương, gửi đến cộng đồng Ki Tô hữu
của mình.
Lạc Thư
Minh Triết đề nghị một lối sống thật minh triết và hợp với đạo lí của người Việt.
Ông bảo rằng, nên tìm đạo ngay trong đời sống thường nhật, tìm cái phi thường
trong những cái thường thường. Nếu tìm cái phi thường trong những cái phi thường
thì sẽ không bao giờ tìm được, mà trái lại còn khiến đời sống trở nên vô đạo.
Cách nói của ông giống như một thiền sư của nhà Phật: Tìm sự giác ngộ trong việc
gánh nước, bửa củi, nấu cơm…
Năm 1973,
Loa Thành Đồ Thuyết ra đời. Khởi hứng từ kiến trúc của thành Cổ Loa, ông đề nghị
Loa pháp (phương pháp trôn ốc), tức là phương pháp tu dưỡng cái đạo làm người,
và càng ngày càng tiến lên cao theo hình trôn ốc để trở thành hiền nhân, thánh
nhân. Theo ông, hiền nhân quân tử của Á Đông là mẫu người rất quân bình mà nền
triết lí An Vi cần phải hết sức chú ý. Mẫu người này có được nhiều ý chí, lắm
tình cảm, và một chuyên môn vững vàng. Họ là người có nhiều lí tưởng nhưng rất
thực tế, sẵn sàng dấn thân để xây dựng tiền đồ của dân tộc và kết quả sẽ thật hữu
hiệu.
Trong Loa
Thành Đồ Thuyết, một mặtông lên án cách sống của những người có chuyên môn cao
nhưng sống vô hồn, vô hướng, chỉ biết làm việc hùng hục như trâu mộng để kiếm
tiền. Với hạng người này, ngoài đời sống sinh lí ra, không còn biết gì đến những
mối tình cao cả của con người, của tâm linh tiến hóa. Mặt khác, lên án một số
người đang chạy theo đủ loại thiên tài điên loạn trên thế giới. Ông bảo: “Âu-Mỹ
giàu vô kể, nên cũng có vô vàn khả năng tiến triển trước mắt, chứ như Việt Nam,
túng xác túng xơ chỉ còn chút vốn liếng đạo làm người mà cũng vất bỏ thì còn gì
nữa mà xây Loa thuyết”(14).Thiển nghĩ, những ai có trách nhiệm xây dựng chương
trình giáo dục cho dân tộc cần phải lưu ý những điểm trên.
Từ nền tảng
Triết lí An Vi ông xây dựng chủ thuyết Việt Nho. Chủ thuyết này có hai phần: Đạo
Nho siêu việt và Đạo Nho của người Lạc Việt.
- Đạo Nho
siêu việt: Ông đã chú giải kinh điển Nho giáo theo cách hoàn toàn sáng tạo và mới
lạ, chưa từng thấy ở các nhà Nho trước đây và những người thuộc trường phái Tân
Nho giáo ở Đài Loan. Ông đã dùng phương pháp so sánh, đối chiếu Nho giáo Nguyên
thủy - đạo Nho khi chưa bị Hán Nho bóp méo, xuyên tạc - với Phân Tâm học miền
sâu, triết học hiện sinh của ba tác giả đã kể trên, sau đó là cảm nghiệm và suy
tưởng trong một thời gian lâu dài để sáng tạo ra triết thuyết của mình. Ông cho
người đọc nhận thấy những giá trị Nhân bản Tâm linh của kinh điển Nho giáo cũng
rất thích hợp với trào lưu triết học hiện đại. Những tác phẩm dành cho chủ đề
này là: Những Dị Biệt Của Hai Nền Triết lý Đông Tây, Cửa Khổng, Nhân Bản, Chữ
Thời, Tâm Tư…
- Đạo Nho của
người Lạc Việt và Nguồn gốc văn hóa Việt Nam: Ông dùng ánh sáng của phương pháp
huyền sử để soi rọi đêm trường âm u của văn hóa Việt Nam. Huyền sử là một
phương pháp khai quật văn hóa và truy nguyên nguồn gốc dân tộc từ những biểu tượng,
những huyền thoại và truyền thuyết của dân tộc, mà ông là người đặt nền móng và
cũng là người dùng nó để xây dựng giả thuyết của mình. Ông tuyên bố, Nho giáo
là do người Việt cổ khai sinh nhưng đã được người Trung Hoa hoàn tất, và cũng bị
họ làm cho sa đọa, sứ mạng của Triết Đông là phải trả lại cho Nho giáo sự chính
truyền của chủ cũ. Ông đã sử dụng khảo cổ học, ngôn ngữ học, phân tâm học và cơ
cấu luận để lí giải nguồn gốc văn hóa và nguồn gốc dân tộc Việt. Những ý tưởng
táo bạo này sẽ được đón nhận nồng nhiệt và gây tranh cãi trong tương lai mai hậu.
Những tác phẩm dành cho chủ đề này là:Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam,
Việt Lý Tố Nguyên, Dịch Kinh Linh Thể, Lạc Thư Minh Triết, Triết Lý Cái Đình,
Loa Thành Đồ Thuyết, Vấn Đề Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam…
Tuy rằng bắt
đầu từ Việt Lý Tố Nguyên trở về sau, ông hầu như hoàn toàn quan tâm đến việc trở
về nguồn, nhưng không phải vì thế mà phần Đạo Nho siêu việt bị ông lơ lãng. Hai
chủ đề này luôn đan xen và hòa quyện lẫn nhau trong các tác phẩm trên, vì vậy
phần lớn độc giả thường sa đà vào những chi tiết về nguồn gốc văn hóa và dân tộc
mà không nhận ra được Đại Đạo - xương sống để tạo nên nền Triết lí An Vi.
Không những
là một triết gia, ông còn là một người quan tâm đến vấn đề giáo dục đại chúng.
Ông cũng là một nhà giáo dục rất sâu sắc, một người có tầm nhìn rất xa về vận mệnh
dân tộc. Bởi vậy ông luôn đề cao việc lấy sự giáo dục con người làm căn bản.
Các tác phẩm bàn về giáo dục của ông như: Triết lý Giáo Dục, Định Hướng Văn Học,
Hiến Chương Giáo Dục, Vấn Đề Quốc Học đều nêu lên sự vô cùng cần thiết của một
nền giáo dục mang tính nhân bản tâm linh, tính dân tộc. Ông đã bỏ nhiều công sức
để nghiên cứu, đối chiếu và so sánh về những nét cơ bản của những nền giáo dục
lớn của nhân loại như Âu Tây, Ấn Độ và Viễn Đông, để rồi đưa ra một chiến lược
giáo dục thích hợp và lâu dài cho dân tộc. Ông từng phát biểu: “Một dân tộc
cũng như một cá nhân, chỉ có thể chống lại đoàn lũ hay những tư trào tràn vào
gieo rắc phân tán dân tộc mình là khi nào tâm thức dân tộc ấy được tổ chức chu
đáo trên một cơ sở tinh thần vững mạnh.”(15)
Ý nguyện
ban đầu của ông là thiết lập một nền Thần học Việt, nhưng về sau ông đã chuyển
hướng và dành toàn bộ tâm lực để sáng tạo ra nền Triết lí An Vi. Có lẽ ông cho
rằng việc xây đắp một nền triết lí hoàn toàn Việt Nam là điều cấp bách hơn; và
việc xây dựng một nền Thần học Việt sẽ do thế hệ tín hữu Công giáo sau ông làm
thay, còn ông chỉ là người đưa ra ý tưởng cho một công việc vô vàn khó khăn và
thử thách này.
Triết lí An
Vi và chủ thuyết Việt Nho mà ông đề xướng nhấn mạnh vào những chủ đề chính: tâm
linh, nhân chủ, tự do, bình sản, thái hòa. Đây không phải là thứ triết học hàn
lâm, trường ốc, khô khan và nhạt nhẽo chuyên dành cho những nhà chuyên môn, mà
nó là một nền triết lý sống động, mang âm hưởng vào xã hội và có được sức mạnh
chuyển hóa lòng người. Vì khuôn khổ có hạn của một bài viết, ở trên tôi chỉ giới
thiệu những tác phẩm then chốt đã xuất bản trước năm 1975. Theo cảm nhận của
riêng tôi, những tác phẩm này có một sức hút lạ thường, một tầm ảnh hưởng diệu
kì; nó có thể gây nên sự chấn động trong tâm thức và làm thay đổi vận mệnh của
bất kì độc giả nào đắm chìm vào trong đó.
Trước năm
1975, tiếng tăm của ông vang dội trong giới học thuật, ông được đánh giá như một
ngôi sao sáng trên bầu trời triết học Việt Nam. Lần lượt, ông đã được các đại học
miền Nam Việt Nam mời dạy ở như: Đại học Vạn Hạnh (1967-1975), Đại học Đà Lạt,
Đại học Minh Đức, Đại học An Giang, Đại học Cần Thơ, Đại học Thành Nhân
(1971-1975). Ông cũng đã được Đại học Văn Khoa - Huế mời dạy, nhưng những biến
động lớn của đất nước đã không cho phép ông thực hiện ý định truyền bá nền triết
lí của mình ở trong nước nữa.
Năm 1975,
ông di cư sang Hoa Kì. Trong gần 10 năm đầu, ông ở nhờ nhà một người bà con. Vì
nhu cầu của những người học trò cũ yêu mến, ông đã cố gắng thu thập và cho in lại
một số tác phẩm đã xuất bản trước năm 1975. Cũng trong thời gian này, ông liên
lạc lại với một số học trò cũ, và bắt tay vào việc xây dựng các nhóm An Vi.
Sau khi được
tiếp xúc với nền văn minh tư bản, nhìn sức sống trẻ trung, mạnh mẽ của Hoa Kì,
ông nhận thấy sức mạnh của thế giới tư bản thực là phi thường. Điều này đã làm
ông khâm phục. Nhưng ông cũng nhìn nhận rằng, xã hội tư bản tuy giúp cho con
người được nhiều tự do, nhiều động cơ vươn lên để tìm kiếm những tiện nghi về vật
chất nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề gốc rễ của con người. Nền văn minh
Âu Mỹ có sức quyến rũ đối với mọi người, nó đã đạt được mục tiêu là làm cho họ
vui tươi, thoải mái, nhưng thực ra, đó chỉ là bộ mặt, là cái vỏ bề ngoài, chứ
chưa thấm đẫm vào tâm hồn. Theo ông, xã hội Âu Mỹ chưa có một chủ đạo làm căn bản
cho một tương lai lâu dài.
Nhờ có nhiều
thời giờ hơn để đọc sách, để thâm cứu và suy tưởng thêm, cái nhìn của ông đã mở
ra một viễn cảnh mới. Trong tiến trình xây đắp triết thuyết Việt Nho, từ giả
thuyết ông nâng thành chủ thuyết, từ Việt Nho nâng lên hàng Thái Nho, triết
thuyết của ông trở nên bao trùm và sâu sắc hơn. Sau một thời gian dài thai
nghén, ông đã liên tiếp cho ra đời bộ Ngũ Kinh Khải Triết: Hùng Việt Sử Ca,
Kinh Hùng Khải Triết, Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc, Sứ Điệp Trống Đồng, Văn
Lang Vũ Bộ. Ông mong muốn bộ Ngũ Kinh Khải Triết sẽ là bộ sách dân tộc đối với
người Việt đang phiêu bạt ở xứ người, và cũng có thể là cho cả dân tộc Việt Nam
trong tương lai. Theo ông, bộ kinh này là di sản thiêng liêng của quê nước, nó
sẽ nhắc nhở cho người Việt đang xa xứ không bao giờ được quên nguồn gốc và dân
tộc mình. Ông nói rằng: “Nếu mình không gắn bó với nó thì ngày mai sẽ trở nên một
giống vô loại. Khuôn mặt và màu da không cho phép mình hòa đồng với người Tây
Âu” (17). Vì quá yêu nước, lời nói của ông mạnh mẽ nhưng hơi cực đoan. Có thể
đó là một cách gây sự chú ý cho cộng đồng người Việt chăng?
Tháng
08/1984, ông được mời sang Đài Loan tham dự Hội nghị Quốc Tế về Triết Trung Hoa
tại Đại học Đông Hải. Trong hội nghị này, ông đã phát biểu một tham luận có
nhan đề “Vai trò Nho giáo Có thể Đảm nhiệm trong Thế giới Ngày nay” (The Role
and the Conditions of Ju in Our Present Age). Cuối năm 1984, Văn Phòng Mục Vụ
Di Dân của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kì tài trợ một năm để ông nghiên cứu về các cộng
đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa Kì. Ông đến cư ngụ mấy tháng tại trụ sở của văn
Phòng Nghiên Cứu Xã Hội ở Garden Grove. Nơi đây ông đã gặp rất nhiều thân hữu,
các nhóm học trò cũ, và thế là chương trình An Vi được phát động. Chương trình
này có mục đích phổ biến triết thuyết Việt Nho, nơi gặp gỡ những người có cũng
chí hướng và sống theo tinh thần của An Vi. Đây cũng là lúc ông làm quen với
máy vi tính và bắt đầu viết lại những suy tưởng của mình. Từ 1984 đến năm 1989,
ông đã viết 4 tác phẩm: Thái Bình Minh Triết tập I, tập II, tập III và Cẩm Nang
Triết Việt. Bản thảo điện tử của các tác phẩm này đã được trao cho linh mục Trần
Công Nghị cất giữ.
Từ năm 1987
đến năm 1992, ông nghỉ hưu tại trụ sở hưu dưỡng của linh mục Vũ Đình Trác ở
Garden Grove. Trong thời gian này, ông đã tập hợp được một số người tha thiết với
triết thuyết An Vi và kiên trì trong sứ mạng rao truyền sứ điệp của ông. Sau
đó, phong trào An Vi đổi tên thành phong trào Việt Linh và hoạt động rộng khắp
tại Hoa Kì. Là người thủ lĩnh của phong trào, sự hành hoạt của ông gần giống
như một nhà chính trị nên ông bị hiểu lầm là con người của chính trị. Điều này
đã gây biết bao oan khiên và phiền phức cho ông.
Tháng
11/1987, ông được mời tham dự Hội nghị Quốc tế về Khổng học với Thế giới Ngày
nay (International Symposium on Confucianism and the Modern World) tại Đài Bắc,
Đài Loan. Hội nghị này quy tụ 400 học giả khắp thế giới. Lần này, ông đã trình
bày trước hội nghị một chiều hướng bao quát và rộng rãi hơn trong tham luận “Đạo
Trường chung cho Đông Nam Á châu” (A Tao-Field for East Asia). Sau đó, ông còn
tham dự Hội nghị Triết học (The World Congress of Philosophy) tại Brighton, Anh
Quốc - năm 1988. Hội nghị Nghiên cứu Triết học Á Châu và Bắc Phi lần thứ XXXIII
(The XXXIII International Conference on Asian and North African Studies) tại
Toronto, Canada - năm 1990. Trong những lần đi dự hội nghị ở xa, ông đều nói với
các môn đệ rằng: “Thầy phải đi để nói cho thế giới biết con người, tư duy và đạo
sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam”.
Năm 1992 đến
năm 1997, vì tai biến mạch não, vì tuổi già sức yếu, ông đã về hưu dưỡng tại
Dòng Đồng Công, Carthage Missouri, Hoa Kì. Ngày 23/03/1997, ông về cõi vĩnh hằng,
để lại nhiều thương tiếc trong lòng môn đệ, cũng như giới học thuật trong và
ngoài nước.
Triết gia
Kim Định đã đi trọn một cuộc hành trình đơn độc để khai phá và sáng tạo nên một
triết thuyết vô tiền khoáng hậu và dâng hiến báu vật này cho dân tộc Việt Nam.
Theo thiển ý, phần đóng góp quan trọng nhất của triết gia Kim Định là Đạo Nho
siêu việt. Phần Đạo Nho của người Lạc Việt và Nguồn gốc dân tộc Việt Nam là một
đóng góp nhỏ hơn, mang tính gợi mở, cũng như một là giả thuyết để làm việc.
Triết thuyết
của Kim Định có rất nhiều ưu điểm nhưng cũng có không ít nhược điểm. Do phải
làm việc một mình, phần đông là suy tưởng nên ông dễ sa đà vào những giây phút
xuất thần mà quên đi thực tại. Cũng vì nhiều khi ông xem nhẹ, không chịu minh
chứng hoặc xem xét những điều mình nói ra bằng phương pháp lịch sử, khảo cổ học,
điền dã… mà chỉ vào những suy luận chủ quan, do vậy nhiều nhà nghiên cứu đã cho
ông là một người cảm tính, mơ mộng và thiếu thực tế. Nhưng thử hỏi, nếu một người
thiếu đi sự mơ mộng thì làm sao có thể trở thành triết gia? Triết gia là một
người luôn luôn bay bổng trong vòm trời suy tưởng và mộng mơ. Vậy mơ mộng tuy
là nhược điểm nhưng cũng chính là ưu điểm của ông, và nhờ vậy ông mới có được sự
linh cảm và cái nhìn thấu thị hiếm có của một thiên tài. Triết gia chân chính
bao giờ cũng đi trước thời đại của mình một thời gian cả mấy mươi năm.
Toàn bộ tác
phẩm của Kim Định là một khu rừng bát ngát, mênh mông, làm cho người đọc dễ bị
lạc lối. Độc giả của ông thường bị nạn cây che mất rừng, chỉ nhận thấy điều tiểu
tiết mà quên đi sự vĩ đại. Nhiều học giả cũng mắc phải cố tật này khi đọc sách
của ông, họ không thấy được sự đóng góp to lớn của ông cho triết lí và văn hóa
Việt Nam, mà chỉ biết phê bình những tiểu tiết của ông một cách gay gắt. Kim Định
là triết gia chứ không phải là một người làm khoa học về xã hội và nhân văn,
hay như một học giả chỉ biết dựa vào sách vở. Vì thế, hậu sinh cần phải rút
tinh hoa từ triết thuyết của ông và bỏ đi những gì là sai sót và không cần thiết.
Xem ra nền triết lí An Vi của ông vẫn còn có thể đáp ứng được phần nào cho nhu
cầu của thời đại, có thể nâng cao tâm thức dân tộc, giúp đào luyện mẫu người mà
quốc gia đang cần.
Đã có nhà sử
học ác ý, đem ông ra chê bai, mỉa mai và làm trò diễu cợt; với cặp mắt cú vọ của
một nhà duy sử, họ chỉ lăm lăm nhìn vào những điểm sơ suất trong công trình của
ông để làm công việc bắt bẻ. Thật là cám cảnh cho ông! Thử hỏi các vị ấy có thể
gây nên nguồn cảm hứng, chuyển hóa được tâm thức của độc giả, để sau khi đọc
sách của mình, độc giả sẽ có một đời sống bình an, thánh thiện và tốt đẹp hơn?
Lại có học giả được thừa hưởng cả một gia sản đồ sộ về nguồn gốc văn hóa và dân
tộc Việt Nam và những ý tưởng mới mẻ của ông nhưng cũng kiếm cách chê bai ông
cho bằng được, họ đã từng phát biểu:“còn mang nhiều chất cảm tính - cực đoan hoặc
là chưa tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh”. Thiên hạ đã mang ơn ông nhưng lại “trả
ơn” ông bằng cách như vậy. Thật là bất công!
Nhiều người
Việt Nam chưa phân biệt được giữa triết gia và triết học gia, giữa hiền triết và
giáo sư triết học, giữa nhà tư tưởng và học giả. Vì hiểu rõ tình trạng này, ông
đã từng nói trong Vũ Trụ Nhân Linh và Văn Lang Vũ Bộrằng, đó là cái cảnh “cá đối
bằng đầu”. Dưới đây là một trong những lời than phiền của ông: “Và nếu có ngày
gặp may, nảy nòi ra một triết gia tả nhậm thì cũng bị lấn át do bao tiếng om
sòm của cảnh cá đối bằng đầu không sao trỗi lên được”(18). (Triết gia tả nhậm
là triết gia đứng về phía kẻ yếu, đứng về phía nhân dân - chú thích của người
viết bài này).
Ông Châu Hải
Kỳ đã từng đem triết gia Kim Định xếp chung một chiếu với học giả Nguyễn Hiến
Lê và học giả Giản Chi (Nguyễn Hiến Lê từng viết chung với Giản Chi một số đầu
sách: Đại Cương Triết Học Trung Quốc, Tuân Tử, Hàn Phi Tử). Không những vậy,
ông còn đem hai tác phẩm cùng viết về đề tài Khổng giáo của Kim Định và của
Nguyễn Hiến Lê ra để so sánh:
“… Dĩ nhiên
tôi không phủ nhận điều này là các tác giả Kim Định cũng như các ông Giản Chi,
Nguyễn Hiến Lê đều phát huy cổ học Á Đông, triết lý Nho giáo, và nội dung của
giáo sư Kim Định có nhiều chủ trương rất mới mẻ, chẳng hạn trong Việt Lý Tố
Nguyên… Những ý kiến của tân kỳ của ông có cái ma lực lôi cuốn độc giả nhất là
giới sinh viên học sinh rất mạnh. Song bình tĩnh mà xét về Nho giáo ông phát
huy có phần quá đà: ông xưng tụng hơi nhiều, tâng bốc có lẽ thái quá. Có thể đọc
nói cuốn nào, về vấn đề gì, người đọc cũng thấy ngay rằng tác giả phát biểu say
mê - nói thẳng ra là chủ quan về một phía. Chỉ sự kiện về mức quá đà đó cũng đủ
minh chứng rằng tác phẩm của ông mất tính Đông phương rồi.
Trái với
tác giả Kim Định, ông Nguyễn Hiến Lê có thái độ quân bình hơn. Ông không giống
giọng điệu của một nhà nho ba hoa, một người “militant”. Huống chi tư tưởng và
nếp sống dân tộc Việt chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền triết học Trung Hoa; lối
viết của ông trở thành một nghệ thuật sống hơn là một học thuyết cao xa như
giáo sư Kim Định, cho nên người đọc lĩnh hội không mấy khó khăn. Nếu đức Vạn thế
sư biểu sống lại và đọc tác phẩm của hai tác giả viết về mình, tôi chắc rằng Ngài
sẽ thích tác giả Nhà giáo họ Khổng hơn”(19)
Mặc dù người
viết bài này rất khâm phục nhân cách cũng như sở học của học giả Nguyễn Hiến
Lê, nhưng không vì như vậy mà chấp nhận cách nhận xét trên. Học giả Nguyễn Hiến
Lê là một nhà nghiên cứu về sử học, cổ học và triết học Trung Hoa chứ không phải
là một nhà tư tưởng; còn giáo sư Kim Định là một triết gia, một nhà tư tưởng thực
thụ. Ông Châu Hải Kỳ chưa phân biệt được sự khác nhau giữa Nho học và Triết lí
Nho giáo, giữa Nho gia và Hiền triết. Học giả Nguyễn Hiến Lê viết về Nho học,
giáo sư Kim Định viết về Nho triết thì làm sao mà đem so sánh với nhau; nếu đem
hai vị đó ra so sánh với nhau thì có khác gì việc đem xe ô tô và máy bay phản lực
ra để tranh cao thấp. Ngoài ra, ông Châu Hải Kỳ còn nói bóng gió rằng, triết
gia Kim Định là một nhà nho ba hoa. Như thế thì thật là quá đáng!
Nhà thơ
Hoài Khanh, giám đốc NXB Ca Dao đã từng trân trọng giới thiệu những tác phẩm của
giáo sư Kim Định như sau:
“Đây là tác
phẩm của một Tâm Hồn Thánh Trí. Các bạn có thể không đọc sách của CA DAO nhưng
các bạn không thể nào không đọc sách của Bậc Hiền Triết KIM ĐỊNH.”(20)
Lời ca tụng
của nhà thơ Hoài Khanh dành cho giáo sư Kim Định thật là xác đáng. Trước năm
1975, những nhà xuất bản tên tuổi ở miền Nam như: Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao, Kinh
Thi, Nguồn Sáng… đều xuất bản sách vì mục đích văn hóa chứ không phải vì mục
đích lợi nhuận; vì thế đây không phải là một cách quảng cáo để bán sách.
Khi triết
gia Kim Định còn sinh thời, đã có nguyên cả một cuốn sách xuyên tạc triết thuyết
của ông, người ta dùng những lời lẽ nặng nề để chà đạp, mắng chửi và cho ông là
một tay hoạt đầu chính trị. Tôi tin chắc rằng, những người này chưa đọc trọn vẹn
một tác phẩm, chứ đừng nói chi đến cả một rừng sách mênh mông của ông. Nếu họ
chịu khó học hỏi và hiểu sâu sắc nền triết lí An Vi của ông thì họ không thể
làm một công việc liều lĩnh và cẩu thả đến như vậy. Tôi không thể nào hiểu nổi
tại sao họ thực hiện ý đồ thâm độc này? Phải chăng ông là một linh mục Công
giáo? Dân tộc Việt Nam đã kinh qua rất nhiều khổ đau vì chia rẽ, sao có người
còn muốn gieo rắc hận thù, nghi ngờ và đố kị?
Và nếu ai
còn nghĩ ông là tay sai của ngoại bang và mục đích làm văn hóa của ông là phá
hoại đất nước thì hãy đọc những dòng sau đây của ông:
“Bây giờ
chúng ta ghé thăm tôn giáo; ngoài sự mất tín nhiệm với con người, chúng ta còn
nhận thấy một tình trạng trầm trọng hơn nhiều đó là sự mất lòng tự tín. Trong hội
nghị các tôn giáo tại Genève năm rồi (Congrès des églises à Genève 9/1970) có lời
tuyên bố là các tôn giáo đã hết uy tín và thẩm quyền dạy luân lý. Nói thế là vì
mọi nền luân lý trước đây đều mang tính cách thế tục, không còn thể hợp nữa cho
con người đang bước vào giai đoạn toàn-cầu với tư tưởng liên-hành-tinh, nên
đang cần một nền luân lý phổ biến hơn, phóng khoáng hơn. Vì thế mà ở rất nhiều
nơi người ta nhận thấy mọc lên từng trăm từng ngàn những nhóm nhỏ (under group)
đứng độc lập bên ngoài mọi giáo quyền, với hi vọng có thể hướng tới linh thiêng
hiệu nghiệm hơn, mặc dầu chưa biết dạng thức như thế nào nhưng ít ra không bị
ràng buộc trong những nghi thức đã trở thành trống rỗng và máy móc. Hiện nay hướng
đi chung của họ là muốn quay về phụng sự con người một cách chân thực. Vì thế
trong sự đánh giá, người ta càng ngày càng căn cứ trên khả năng cũng như uy tín
cá nhân nhiều hơn là trên chức nghiệp hay quyền uy như trước. Đấy cũng là dấu
hiệu con người đang từ giã những hành ngơi bên ngoài để đi sâu vào nội tâm. Vì
thế ta có thể nói nét đặc trưng của thế giới hiện đại không phải là sa lầy vào
vật chất như các nền luân lý quen nói, nhưng là giũ bỏ các giá trị cũ để đi tìm
những gì vươn lên. Còn những giá trị tinh thần cũ bất cứ thuộc tôn giáo, triết
học hay văn hóa, luân lý, quyền uy nào đều không được chấp nhận nữa” (21)
Để đem lại
danh dự và xóa đi ngộ nhận về triết gia Kim Định, sau khi ông bị người ta cố ý
chụp mũ, vu khống và bôi nhọ, tôi - một kẻ vô danh tiểu tốt - đành phải trích dẫn
dài dòng như trên. Liệu bề trên của ông trong giáo hội Công giáo có vừa ý khi
nghe ông phát biểu một cách quyết liệt như vậy không? Cách nói quá thẳng thắn
và trung thực của ông mang lại lợi ích gì cho giáo hội Công giáo và những thế lực
chính trị? Đó là câu hỏi mà những người đã hiểu sai về ông phải tự trả lời.
Trích đoạn
trên đây cho thấy triết gia Kim Định đã có một sự nhạy cảm và cái nhìn thấu thị
vượt thời gian. Đã và đang có những cá nhân riêng lẻ, những nhóm người, những
dòng tu thực hiện những giá trị tinh thần cao quý và hành động vì mục đích đem
lại hòa bình, thịnh vượng cho thế giới. Có nhiều và rất nhiều những con người
như vậy, họ là: Krishnamurti, Nisargadatta Maharaj, Mẹ Teresa, Triết gia Kim Định,
Thích Nhất Hạnh, Dalai Lama, Eckhart Tolle…
Trong cuộc
đời dạy học và trước tác của ông, ông không chỉ giảng dạy kiến thức mà còn trao
truyền một Đạo Sống cho biết bao thế hệ môn sinh. Nhiều người chỉ biết ông qua
tác phẩm nhưng vô cùng biết ơn ông, bởi vì ông đã khai tâm và dẫn dắt họ về với
suối nguồn của Đạo học Á Đông, mà cũng chính là trở về với cội nguồn tâm linh
sâu thẳm trong tâm hồn mà từ lâu họ đã lãng quên trong đời sống thường nhật.
Ông là một bậc thánh trí, một bậc hiền triết, một chiến sĩ dấn thân trọn đời vì
văn hóa dân tộc. Ông là bó đuốc thắp sáng trong đêm trường hoang vu của Việt
Nam và nhân loại. Ông là vị Khổng Tử của nước Việt Nam trong bối cảnh Xuân Thu
Chiến Quốc thời hiện đại.
Ông đã sống
chết với những điều mình cưu mang gần bốn mươi năm trời, từ lúc còn ở trong nước,
đi ra nước ngoài, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trong bệnh tật và cô đơn. Ông
ra đi khi đã được nhìn thấy được học thuyết An Vi của mình bén rễ trong cộng đồng
người Việt Nam ở hải ngoại. Những suy tư và đề nghị của ông chắc chắn sẽ được hậu
thế đánh giá cao.
Bậc hiền
triết Kim Định chính là điềm triệu, là một con chim quý Lạc Việt báo hiệu thời
đại Tâm Linh sẽ đến. Tất cả biến cố về chính trị, kinh tế sẽ qua đi, tương lai
thuộc về ông và những con người mang sứ mệnh khơi lại nguồn suối tâm linh của
Việt tộc.
Ngày
14/7/2012, nhân 15 năm ngày mất của Kim Định, Trung tâm Minh Triết phối hợp với
Trung tâm Lý Học Đông Phương đã tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông tại Văn
Miếu Quốc Tử Giám. Đây là lần đầu tiên, một buổi tọa đàm có quy mô lớn về triết
gia Lương Kim Định được tổ chức tại Việt Nam. Cuối cùng, học giới trong nước
cũng chấp nhận và đánh giá lại di sản đồ sộ và quý báu về triết học và văn hóa
Việt Nam của ông. Tuy mới chỉ là một tín hiệu nhỏ, nhưng hi vọng đây là một bước
khởi đầu tốt đẹp. Để đánh giá lại toàn bộ di sản của ông, có lẽ phải cần một thời
gian khá dài, với sự góp sức của những người yêu mến minh triết và có nhiều tâm
huyết với văn hóa dân tộc.
................................................................................
1) Cửa Khổng
- Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn, 1965, Lời tựa.
(2) Cửa Khổng
- Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn, 1965, trang 104.
(3) Nhân Bản
- Kin Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài Gòn 1965, trang 144.
(4) Định Hướng
Văn Học - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn 1969, trang 83-84.
(5) Bìa 3
cuốn Chữ Thời - Kin Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài Gòn 1967.
(6) Những Dị
Biệt Của Hai Nền Triết Lý Đông Tây - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn 1969,
trang 95-96
(7) Những Dị
Biệt Của Hai Nền Triết Lý Đông Tây - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn 1969,
trang 128.
(8) Tâm Tư
- Kim Định - Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1970, Lời tựa.
(9) Căn bản
triết lý trong văn hóa Việt Nam - Kim Định - Ra Khơi, Sài Gòn 1967, trang
153-154
(10) Dị Biệt
Của Hai Nền Triết Lý Đông Tây - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn 1969, Lời bạt
(11) Việt
Lý Tố Nguyên - Kim Định - NXB An Tiêm, Sài Gòn 1970, trang bìa 4.
(12) Bìa 4
của Dịch Kinh Linh Thể - Kim Định - Tủ Sách Ra Khơi, Sài Gòn 1970.
(13) Lạc
Thư Minh Triết - Kim Định - NXB Nguồn Sáng, Sài Gòn 1971, trang 134.
(14) Loa
Thành Đồ Thuyết - Kim Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài Gòn 1973, trang 153.
(15) Hiến
chương Giáo dục - Kim Định - NXB An Tiêm, Sài Gòn 1970, trang bìa 4.
(17) Văn
Lang Vũ Bộ - Kim Định - NXB H.T Kelton, USA, trang 236.
(18) Văn
Lang Vũ Bộ - Kim Định - NXB H.T Kelton, USA, trang 87.
(19) Nguyễn
Hiến Lê - Cuộc đời và Tác phẩm - Châu Hải Kỳ - NXB Văn Học, Hà Nội 1993, trang
227-228.
(20) Ca
Khúc Của Quán Cà Phê Buồn - Carson McCullers, Hoài Khanh dịch - NBX Ca Dao, Sài
Gòn 1969, trang cuối sách.
(21) Loa
Thành Đồ Thuyết - Kim Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài Gòn 1973, trang 180-181.
PHẦN TRÍCH
DẪN NHỮNG BÀI VIẾT VỀ TRIẾT GIA KIM ĐỊNH
Trong Hồi
Kí Nguyễn Hiến Lê - NXB Văn Học, 1993 (trang 546), học giả Nguyễn Hiến Lê đã viết
về triết gia Kim Định:
“Thật lạ
lùng! Người đề cao Khổng tử nhất ở nước ta từ trước tới nay lại là một tín đồ
Công giáo, giáo sư Kim Định, ông đã viết khoảng chục cuốn về đạo Khổng đưa ra
nhiều ý táo bạo, mà ông chưa kịp sắp đặt lại thành hệ thống. Ông muốn cải tạo
xã hội, cải tạo cả thế giới nữa, cho rằng nếu canh tân đạo Khổng thì những tư
tưởng tự do và bình sản của Khổng có thể cứu nhân loại khỏi nhiều thảm họa.
Theo ông, hiểu Khổng là vượt Khổng cho nên tránh các vấn đề siêu hình mà ông lại
có lúc dùng nhãn quan siêu hình để nghiên cứu Khổng.”
Khi nhận định
về địa vị của Giáo sư Kim Định trên lộ trình tư tưởng Việt Nho, cố học giả linh
mục Vũ Đình Trác đã viết như sau:
“Nhờ công
phu mở đường trở về Triết Ðông của Linh Mục Giáo Sư Bửu Dưỡng và Linh Mục Giáo
Sư Nguyễn Văn Thích cũng như tâm huyết của Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục, chương
trình Triết Học Ðông Phương được khai giảng tại Ðại Học Văn Khoa Saigon năm
1958. Sẵn đường trở về Ðông Phương, Linh Mục Giáo Sư Kim Ðịnh tiện đường, đơn
thương độc mã, xông lên một bước táo bạo, mở đường đi vào Triết Lâm Việt Nam.
Trong suốt
16 năm trời, tại giảng đường Ðại Học Văn Khoa Saigon, Giáo Sư Kim Ðịnh đã ảnh
hưởng sâu rộng cho cả một thế hệ thanh niên và sinh viên. Mặc dầu bao chống đối,
Giáo Sư Kim Ðịnh đã im lặng xây dựng một hệ thống Việt Nho khá trung thực và hấp
dẫn. Không ai có thể chối cãi công phu xây dựng và ảnh hưởng sâu rộng của ông
trong lãnh vực văn hóa dân tộc. Từ Ðại Học Văn Khoa Saigon, Giáo Sư Kim Ðịnh mở
rộng mặt trận tới các đại học khác: đại học Ðà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Ðức, Thành
Nhân và An Giang. Chính trong giai đoạn này Giáo Sư Kim Ðịnh đã sáng lập ra chủ
thuyết An Vi và Việt Nho.
Nhờ công
khai thác và biên khảo, sáng tác của Giáo Sư Kim Ðịnh, những bậc thức giả khắp
nơi đã suy tôn Giáo Sư là Triết Gia Việt Nam. Ảnh hưởng Việt Triết và Việt Nho
của Giáo Sư Kim Ðịnh đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại thực tại
văn hóa của mình. Các đồ đệ của Giáo Sư Kim Ðịnh đã đáp ứng nguyện vọng của Thầy
để khai thác và phổ biến Việt Lý của Thầy qua tổ chức An Việt. Các nhóm An Việt
được thành lập khắp nơi: San Jose, Orange, Houston, Louisiana, Washington,
D.C., Philadelphia, Seattle và tại Canada, Úc Châu, Anh, Pháp, Ðức, v.v... AN
VI đã như luồng gió dân tộc bùng lên khắp nơi có người Việt định cư. Các nhóm
này coi Triết gia Kim Định như bậc Đại Sư mà họ tôn làm Tổ: TỔ SƯ AN VI. Ảnh hưởng
của của Triết gia không những thế, mà con lan rộng tới các học giả, triết gia
ngoại quốc: Âu Mỹ và khối Viễn Đông.”
Trong báo
Ngày Nay số 121, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, đại học Georgetown, Washington D.C
viết về Giáo sư Kim Ðịnh:
“Trong nỗ lực
đi tìm một con đường Việt Tộc, nhân chủ, tự do, thì chúng ta phải kể ở hàng đầu
công trình đồ sộ của Giáo Sư Kim Ðịnh. Ở đâu ông cũng thế, không phải sang Mỹ
ông mới tìm “về nguồn”. Việc làm của ông trong tình cảnh mất mát vô biên, chẳng
qua cũng chỉ là tiếp nối công việc của ông đã bắt đầu khi còn ở trong nước, khi
còn ở miền Nam tự do. Từ 1962 tới 1975, ông đã hoàn tất được 23 cuốn triết học,
tương đương với khoảng 7,000 trang một mảng tư tưởng mà không dễ mấy triết gia
có thể so sánh được. Sự độc đáo ở nơi ông cũng đã là một chuyện quá rõ - dầu ta
có đồng ý với ông hay không, thì ta cũng không thể phủ nhận được tính cách độc
đáo của tư tưởng ông.
Ngày nay
tham vọng cuối cùng của Giáo Sư Kim Ðịnh là sẽ dựng xong một bộ Kinh Việt (hiểu
theo nghĩa "bible") cho dân tộc ta. Ðể thực hiện tham vọng này, ông
đã cho in lại hoặc đang in năm cuốn thuộc bộ "Ngũ kinh khải triết",
đó là: Hùng Việt Sử Ca, Kinh Hùng Khải Triết, Pho Tượng Ðẹp Nhất Của Việt Tộc,
Sứ Ðiệp Trống Ðồng, Văn Lang Vũ Bộ (số lớn do nhà in H.T. Kelton xuất bản). Nếu
ai hỏi tôi rằng có nên đọc hay không, thì tôi xin thưa ngay: dứt khoát là có. Tại
sao - Tại vì nếu ta không nhất thiết đồng ý với hết cả ý kiến của ông, ta cũng
sẽ được làm thân với một trong những bộ óc triết lý lớn nhất nếu không của nhân
loại thì cũng của Việt Nam. Tôi nói điều này trong sự cân nhắc, cũng không khác
gì câu tôi sẽ trả lời cho người nào hỏi: có nên đọc Platon hay Aristote không?
Ðã nhất thiết gì ta đồng ý với Platon trong tác phẩm La république, nhưng ai không
đọc tác phẩm đó, thì chắc chắn là mất đi một mảng hiểu biết rộng lớn về triết học
Tây Phương. Cũng như vậy, ai không đọc Giáo Sư Kim Ðịnh cũng không sao, ông sẽ
từ tốn mà “an vi”, để chờ một ngày kia người nọ sẽ tỉnh mộng mà trông thấy hết
cả cái mất mát của mình.”
Trong bộ Tự
điển Bách khoa Văn Học xuất bản năm 2005, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Viện Văn Học
Quốc nhận định về triết gia Kim Định:
“Vậy thì những
cuốn sách nói trên đã đến lúc cho phép chúng ta xác nhận lại thật rõ ràng một số
đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Viêm Việt, một “bản quyền” vô giá của dân tộc
Việt Nam mà người Trung Hoa giai đoạn du mục chưa thể có:
1. Đây là nền
văn hóa nông nghiệp gắn liền với thiên nhiên, thời tiết, mùa màng, là sự hợp nhất
giữa người và trời (thiên nhân hợp nhất), suy rộng ra là lòng yêu hòa bình,
ghét chiến tranh, đặt văn lên trên võ, đặt nhân trị và lễ trị lên trên pháp trị.
2. Là nền
văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống định cư nên sớm định hình tình cảm yêu nhà yêu
nước, trong khi du mục là cuộc sống lang thang nên chỉ biết có người đứng đầu.
Vì thế giữa hai vế kết hợp về sau của đạo Nho là "trung quân ái quốc"
thì trung quân vốn của Hoa tộc, ái quốc vốn của Việt tộc.
3. Là nền
văn hóa đã trường kỳ chống lại sự xâm lăng của văn hóa du mục nên cũng là nền
văn hóa sớm có sự cố kết về mặt tinh thần dân tộc; dân tộc tính là một tiêu chí
định tính quan trọng của văn minh Lạc Việt và văn minh viễn Đông.
4. Là nền
văn hóa mềm mại uyển chuyển (Nho = nhu), biết coi trọng âm hơn dương, coi trọng
nữ giới hơn nam giới hay ít ra cũng thừa nhận nữ giới có những quyền, những ưu
thế hơn nam giới – “lệnh ông không bằng cồng bà”.
5. Là nền
văn hóa trọng “chiêu” hơn “mục”, trọng “tả” hơn “hữu”, tức là hướng về phương
Đông và phương Nam, về nữ giới, về số lẻ, về hiền triết, về văn học nghệ thuật,
về dân chúng, tóm lại hướng tới thuận hòa.
6. Là nền
văn hóa sinh thành trên cơ sở cố kết đơn vị làng, coi làng là một thứ liên bang
uyển chuyển mở rộng phần tự trị trong xã hội phong kiến, nơi đề cao vai trò người
mẹ và người trưởng thượng, nơi hình thành những lễ tục dân gian cùng trường tồn
bên cạnh luật lệnh của nhà nước như một kiểu văn hóa lưỡng nghi; làng cũng là tổ
hợp của dân chúng đứng ra đương đầu với nhà vua khi cần thiết – “phép vua thua
lệ làng”.
7. Là nền
văn hóa tôn trọng thể chế gia đình như một giải pháp trung hòa giữa hai thái cực:
muốn xóa bỏ tự do cá nhân vì lợi ích của công quyền và ngược lại, muốn phớt lờ
mọi nghĩa vụ xã hội để đạt được tự do cá nhân. Tôn trọng thể chế gia đình khiến
con người sống có tình và có lý, có quyền lợi và có nghĩa vụ, có trung và có hiếu.
Ý kiến của
Kim Định thường được trình bày dưới dạng những giả thuyết làm việc mà không phải
là những định đề áp đặt hoặc coi như đã giải quyết trọn vẹn. Mặt khác, vào những
năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước, ông đã sớm có sự nhạy cảm trong việc tiếp
nhận các phương pháp mới của triết học Âu Tây, chẳng hạn cấu trúc luận, phân
tâm học, cả học thuyết tương đối của Albert Einstein nên có được cách lập luận
đa dạng, với những thao tác không một chiều, cứng nhắc, giúp độc giả soi nhìn đối
tượng từ nhiều phía, và làm cho luận thuyết của mình có sức hấp dẫn. Nhưng những
điều ông đề xuất cũng như các luận điểm được ông chốt lại có những chỗ không
tránh khỏi cực đoan, do không đủ cứ liệu, kể cả do thiên kiến, đã gây ra những
phản ứng sôi nổi trong học giới, khiến nhiều người tin theo và cũng nhiều người
bác bỏ. Mặc dầu thế, nhìn chung không thể không thừa nhận đấy là những tìm tòi
đầy tâm huyết và có sức gợi mở không nhỏ, về một hệ thống vấn đề không kém quan
trọng đang là ẩn số cần được tiếp tục giải đáp trong các ngành khoa học xã hội
và nhân văn của Việt Nam”.
Giáo sư Trần
Văn Đoàn - Đại học Quốc gia Đài Loan chia sẻ cảm tưởng:
“Trong gần
một thập niên từ 1983-1992, người ta có thể nói cụ Kim Ðịnh là làm việc như một
siêu nhân. Gần chục tác phẩm liên tiếp ra đời. Hội An Việt được thành lập, khêu
lên tinh thần ái quốc, yêu chuộng sự khôn ngoan cũng như suy tầm về nguồn dân tộc,
giúp những bạn trẻ và trí thức cảm thấy hãnh diện về dân tộc Việt mình nơi quê
họ đất người.
Từ các tiểu
bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi
đâu cũng có phong trào Hùng Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng
chưa từng thấy.
Trong những
năm nay, cụ thường gửi tặng tôi những tác phẩm mới cũng như những tin tức về
phong trào Hùng Việt và Hội An Việt của cụ. Tôi cũng nhận thấy, có nhiều tác phẩm
đã thấm nhuần ảnh hưởng của cụ (những bài của Linh mục Trần Cao Tường, các anh
Vương Kỳ Sơn, vân vân). Có thể nói mà không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có
lẽ là một người trí thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởng như vậy.
Như tôi từng
khẳng định công lao của cụ tại Viện Triết học của Trung tâm Khoa học Xã hội, Hà
Nội (18/01/1997), Kim Ðịnh vượt xa Trần Ðức Thảo trong lãnh vực suy tư và trong
tinh thần ái quốc, cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ.”
Thái Bình
Minh Triết , một tác phẩm của triết gia Kim Định đã được linh mục Trần Công Nghị
xuất bản ngay sau khi ông mất. Linh mục Trần Công Nghị đã tưởng niệm về ông:
“Kim Định
ôm hoài bão cánh chim Việt một ngày sẽ tung bay lên thượng tầng trời cao xanh,
nơi đó đàn Chim Việt với nền Triết Việt Minh Triết là nguồn khởi thủy của một
triết lý sâu xa, tiềm tàng sắc thái An Vi. Kim Định vẫn miệt mài khám phá, đi
tìm và không ngừng minh chứng cho ta thấy được nguồn gốc oai hùng của Đàn Chim
Việt.”
Trong Hành
Trình Tìm Lại Cội Nguồn - NXB Văn Học, 2008 (trang 55),Hà Văn Thùy đã ca ngợi
ông bằng những lời rất trân trọng:
“Hơn 30 năm
qua cho tới nay, nhiều người cho rằng, cái yếu nhất của học thuyết Kim Định là
thiếu cơ sở khoa học. Nhưng tôi trộm nghĩ, chính sự thiếu cơ sở khoa học này đã
thể hiện dự cảm thiên tài của ông. Lẽ thường thì từ bột gột nên hồ nhưng có thể
nói Kim Định đã từ nước lã mà gột nên hồ. Trong thời gian của ông, tri thức
nhân loại về nguồn gốc văn hóa Á Đông còn rất thiếu thốn, cuốn sách quan trọng
Eden in the East chưa ra đời, nguồn gốc và sự di cư của người hiện đại Homo
sapiens chưa được xác định. Nhất là con đường Nam Á trong cuộc hành trình định
mệnh về phương Đông chưa được phát hiện. Lịch sử Á Đông còn phủ trong vòng bao
trùm của lý thuyết A. Aymonier cho rằng người Á Đông là từ phía Tây đi tới và
chủ nghĩa Hoa tâm vẫn bao trùm trí tuệ nhân loại… Nhưng bằng dự cảm thiên tài của
mình , ông đã phát hiện ra văn hóa Việt Nho cội nguồn của người Việt và bằng
con đường “phiêu lưu” giải mã những truyền thuyết, huyền sử, ông đã tìm ra cốt
lõi An Vi của đạo Việt! Là người tiên phong trong học thuật và tư tưởng, ông đã
vượt qua những trí tuệ sáng láng nhất của người Việt và nhân loại. Chính vì thế,
ông trở thành người độc hành lạc lõng.”
Đánh giá bài viết?