Biện chứng của tự nhiên - Phê phán những trào lưu tư tưởng tư sản

Theo “Đề cương chung” từ phần cuối cuốn sách, Ăngghen định để phê phán từng trào lưu phản động của triết học tư sản đã thâm nhập vào khoa học tự nhiên

l. Phê phán chủ nghĩa duy tân sinh lý học

Trước hết, Ăngghen phê phán phái chủ nghĩa duy tâm sinh lý học Đức, phái này theo thuyết Cantơ mới, truyền bá tư tưởng sai lầm, cho rằng nhận thức là có giới hạn gồm Đuy Boa Râymông, Nêgơli, Hemhôntxơ, nhất là phê phán tư tưởng “không thể nhận thức được cái vô hạn” của Nêgơli.

Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm sinh lý học, Ăngghen đặc biệt nói nhiều về những kết quả của quang học và sinh lý học, tức là về hoạt động của cơ quan thị giác của con người và động vật, kể cả côn trùng. Hồi đó, nhờ có sự tiến bộ của khoa sinh vật học, người ta đã nghiên cứu kỹ con mắt của động vật, côn trùng và thấy rằng mắt của động vật nhạy hơn mắt người. Người ta phát hiện có nhiều loại thú và chim nhìn được xa hơn mắt người, các côn trùng nhìn thấy được những cái mà con người không thấy được. Những kết quả đó đã chứng thực một cách khách quan cho chủ nghĩa duy vật nhưng Hemhôntxơ lại giản thức các kết quả đó theo tinh thần thuyết Cantơ, cho rằng thị giác của con người không được hoàn thiện để đủ mức nhận thức được thế giới, nó có một giới hạn mà đi quá nữa thì con người chẳng nhìn thấy gì nữa cả. Ăngghen đã phê phán quan điểm bất khả tri và nêu lên quan điểm của mình: “Nhận thức. Kiến có mắt khác chúng ta, nó nhìn được những tia sáng hoá học… Nhưng, trong sự nhận thức chính những tia mà chúng ta không trông thấy ấy, chúng ta đã đi xa hơn kiến nhiều. Chỉ một việc giản đơn là chúng ta có thể chứng minh được rằng kiến nhìn thấy những vật mà chúng ta không nhìn thấy và sự chứng minh ấy chỉ có dựa vào những nhận biết của mắt chúng ta thì cũng đủ chứng tỏ rằng, cấu tạo đặc biệt của mắt người không phải là một giới hạn tuyệt đối với nhận thức của loài người”.

Ăngghen lại viết tiếp để khẳng định năng lực nhận thức của con người “Cái mà tư duy của chúng ta có thể nhận thức được, là căn cứ cho chúng ta thấy tư duy đã nhận thức và hàng ngày đang nhận thức. Và như thế là đủ, cả về mặt lượng lẫn về chất”70.

Những người duy tâm sinh lý học tách rời nhận thức cảm tính với nhận thức lô gích tư duy, vì họ không nhìn thấy sự liên hệ lô gích trong cảm giác con người nêu cho nhận thức là có giới hạn. Ăngghen xét nhận thức trong sự thống nhất của nhận thức cảm tính, lý tính và nhận thức lô gích. Ăngghen vạch ra rằng, con người nhờ có nhận thức lô gích mới nhận thức được những cái mà cảm giác không trực tiếp cảm thụ được, con diều hâu nhìn xa hơn người nhưng người thấy được nhiều hơn con diều hâu. Nhờ có nhận thức lô gích, tư duy mà người ta chế tạo được dụng cụ, máy móc để cảm thụ được những cái mà giác quan không nhận thấy được, không cảm nhận được. Ví dụ: mắt con kiến có thể nhìn thấy những cái nhỏ như tia sáng mà con người không thể thấy được, nhưng kiến không hiểu được tia sáng ấy. Con người, nhờ dụng cụ máy móc, hoá học, lý học, v v. mà thấy được tự nhiên một cách sâu sắc hơn những động vật, côn trùng. Do đó, Ăngghen nói: Con người có đủ sức nhận thức được thế giới cả về chất cũng như về lượng.

Ăngghen đặc biệt đả kích mạnh cái thói thịnh hành lúc đó của phái Cantơ mới là lắp lại “vật tự nó” của Cantơ. Ăngghen chế giễu thâm thuý những kẻ theo phái Cantơ mới reo rắc cho các nhà khoa học tự nhiên sự hoài nghi đối với hiểu biết của con người về thế giới bên ngoài. Ăngghen cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến các nhà khoa học tự nhiên dao động về vấn đề tính chân thực của những hiểu biết của con người là ở chỗ thổi phồng một chiều yếu tố tính tương đối trong nhận thức. Ăngghen viết: “Vì những nhà khoa học tự nhiên chưa được rèn luyện về lôgích về phép biện chứng nên số lượng và sự thay đổi của các giả thiết gạt bỏ lẫn nhau dễ tạo ra cho họ cái quan niệm cho rằng chúng ta không thể nhận thức được bản chất của sự vật (Halơ và Gơtơ). Điều đó không phải chỉ riêng đối với khoa học tự nhiên, vì nhận thức của loài người phát triển theo con đường cong rất quanh co và những học thuyết cũng loại trừ nhau ngay cả trong những bộ môn lịch sử, kể cả triết học, song không ai căn cứ vào điều ấy mà kết luận rằng lô gích hình thức, chẳng hạn, là một điều vô nghĩa. - Hình thức cuối cùng của quan điểm ấy: “vật tự nó”. Sự khẳng định cho rằng chúng ta không có năng lực nhận thức được vật tự nó... thì một là, thoát ra khỏi lĩnh vực của khoa học và chuyển vào lĩnh vực của ảo tưởng. Hai là, nó hoàn toàn không mang lại gì thêm cho tri thức khoa học của chúng ta, vì nếu chúng ta không có khả năng nghiên cứu các sự vật, thì chúng không tồn tại đối với chúng ta. Và ba là, sự khẳng định ấy chỉ là một câu rỗng tuếch và không bao giờ có thể áp dụng được trong thực tế. Xét nó một cách trừu tượng, thì nó có vẻ là hoàn toàn hợp lý. Nhưng ta hãy thử áp dụng nó xem. Chúng ta sẽ nghĩ gì về một nhà động vật học nếu ông ta nói: Con chó có vẻ có bốn chân, nhưng chúng ta không biết thực ra nó có bốn triệu chân hay chẳng có cái nào”? Chúng ta sẽ nghĩ gì về nhà toán học nếu ông ta bắt đầu định nghĩa hình tam giác là một hình có ba cạnh, rồi sau đó lại tuyên rằng không biết hình tam giác ấy có 25 cạnh không? 2 x 2 có lẽ là 4? Nhưng các nhà khoa học tự nhiên thường tránh áp dụng từ ngữ vật tự nó, trong khoa học tự nhiên, và chỉ cho phép mình làm việc đó khi nào họ đi vào lĩnh vực của triết học. Đó là bằng chứng tốt nhất nói lên rằng họ ít chú ý đến cái vật tự nó như thế nào, và bản thân cái đó cũng ít có giá trị như thế nào. Nếu như họ thật sự chú trọng đến nó thì nói chung, cần gì phải nghiên cứu bất cứ cái gì?

Đứng trên quan điểm lịch sử mà xét thì điều đó có lẽ có một nghĩa nào đó: chỉ có trong những điều kiện của thời đại chúng ta, và trong chừng mực những điều kiện ấy cho phép, thì chúng ta mới nhận thức được sự vật”71.

Các nhà duy tâm đó, vì có quan điểm siêu hình nên không hiểu được quan hệ của chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối ở thế kỷ XIX xuất hiện nhiều quan niệm về nhận thức thế giới đã phá bỏ nhiều quan niệm cũ về thế giới, nên những nhà duy tâm đã rút ra kết luận sai lầm là người ta không thể nhận thức được thế giới. Ăngghen vạch ra những nhà duy tâm sinh lý học không hiểu được phép biện chứng nên cho nhận thức của con người là đi theo con đường thẳng. Khi họ thấy rằng nhận thức đi theo con đường quanh co khúc khuỷu thì họ cho rằng nhận thức không bao giờ đúng cả, mà một khi họ cho rằng nhận thức của con người không hiểu biết được thế giới, và như vậy là đi đến thuyết của Cantơ về “vật tự nó”, là không thể nhận thức được. Ăngghen vạch ra rằng, không có nhà sinh vật học nào lại hoài nghi con chó có 4 chân, nhưng trong triết học thì họ lại nghi ngờ. Đó là quan điểm dao động của họ.

Ăngghen phê phán thuyết không thể biết và đồng thời nêu lên và giải quyết những vấn đề rất sâu sắc của lý luận duy vật về nhận thức, đặc biệt trong vấn đề tác dụng của giả thuyết là một hình thức phát triển của khoa học tự nhiên, vấn đề thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, của nhận thức và một số vấn đề khác về lý luận nhận thức. Dựa vào việc thừa nhận tính khách quan của các quy luật tự nhiên, Ăngghen đã bảo vệ một cách kiên quyết tính nhận thức được của các quy luật đó. Quy luật không phải là giả thuyết, không phải chỉ là một sự thừa nhận, mà trái lại chính giả thuyết là một giai đoạn để đi đến nhận thức quy luật, vì giả định về sự tồn tại của tính quy luật khách quan trong tự nhiên bao giờ cũng có trước việc phát hiện ra quy luật.

Ăngghen nêu lên con đường phát hiện và nhận thức quy luật mới của tự nhiên: “Hình thức phát triển của khoa học tự nhiên, trong chừng mực mà khoa học này tư duy, là giả thuyết. Sự quan sát khám phá ra một sự việc mới làm cho không thể dùng được cách giải thích trước đây về những sự việc thuộc cùng loại ấy nữa. Thế là xuất hiện sự cần thiết phải có những cách giải thích mới, lúc đầu chỉ dựa vào một số lượng có hạn sự việc và những điều quan sát được. Tài liệu kinh nghiệm sau này sẽ chọn lọc lại những giả thuyết ấy, gạt bỏ những giả thuyết này, sửa đổi những những giả thuyết khác cho đến lúc, cuối cùng, quy luật được xác định dưới hình thức thuần khiết. Nếu như chúng ta muốn đợi cho đến khi những tài liệu cần thiết cho quy luật trở nên thuần khiết thì như thế có nghĩa là tạm đình chỉ những sự tìm tòi của tư duy cho tới lúc đó, và như thế cũng đủ để cho chúng ta không bao giờ có được quy luật”72.

Như vậy, ở đây Ăngghen vạch ra phép biện chứng của nhận thức, rằng người ta ngay một lúc không thể nào nhận thức được chân lý tuyệt đối. Chúng ta đi đến chân lý tuyệt đối thông qua các chân lý tương đối và đi đến bản chất phải thông qua các hiện tượng bề ngoài của sự vật.

2. Phê phán thuyết cơ giới

Song song với việc phê phán chủ nghĩa duy tâm sinh lý học và thuyết không thể biết, Ăngghen cũng phê phán thuyết cơ giới mà những đại biểu của thuyết này định thay thế phép biện chứng cách mạng của Mác bằng “thuyết tiến hoá tầm thường”, họ phủ nhận những cuộc cách mạng và những bước nhảy vọt trong sự phát triển lịch sử, và coi những sự khác nhau về chất chỉ là những sự khác nhau thuần tuý về lượng. Trong bài bút ký “Vận động cơ giới”, Ăngghen viết: “Các nhà khoa học tự nhiên cho rằng vận động là đồng nhất với vận động cơ giới, với sự thay đổi vị trí, và họ cho rằng đó là một điều dĩ nhiên. Điều đó là của thế kỷ XVIII, cái thế kỷ chưa biết đến hoá học, truyền lại và điều đó gây khó khăn lớn cho sự hiểu biết rõ ràng về các quá trình. Vận động, đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến hoá nói chung. Chính do cũng sự hiểu lầm ấy mà có cái cuồng vọng muốn quy tất cả mọi cái thành vận động cơ giới... điều đó đã làm lu mờ tính đặc thù của các hình thức vận động khác. Nói thế không có nghĩa là một hình thức vận động cao không luôn luôn gắn liền với một vận động cơ giới thật sự nào (vận động bên ngoài hoặc vận động của các phân tử), chẳng khác gì các hình thức vận động cao cũng đồng thời sản sinh ra những hình thức vận động khác và chẳng khác gì tác động hoá học là không thể có được nếu không có sự thay đổi về nhiệt độ và về trạng thái điện, còn sự sống hữu cơ và không thể có được nếu không có sự biến đổi cơ giới biến đổi phân tử, hoá học, nhiệt, và điện v.v.. Nhưng trong mỗi trường hợp được xét tới, sự tồn tại của những hình thức vận động phụ ấy không bao quát hết được bản chất của hình thức vận động chủ yếu. Chắc hẳn là một ngày kia qua con đường thực nghiệm, chúng ta “sẽ quy” được tư duy thành những vận động phân tử và hoá học ở trong óc; nhưng điều đó liệu có bao quát được hết bản chất của tư duy chăng”73.

Chúng ta nên đặc biệt chú ý đến đoạn văn này. Ở đây, Ăngghen nêu lên định nghĩa, quan niệm khoa học rõ ràng, chính xác về vận động. Ăngghen quan niệm một cách khác hẳn với những người siêu hình, máy móc, họ cho rằng vận động là sự chuyển chỗ. Ăngghen chỉ ra rằng vận động là mọi sự biến hoá nói chung. Ăngghen còn nêu lên mối liên hệ biện chứng của các hình thức vận động và sự chuyển hoá giữa các hình thức đó. Mỗi vật thể đều đồng thời ở trong các hình thức vận động và vận động có nhiều lớp. Không thể  hình dung một hình thức vận động cô lập với các hình thức vận động khác. Chúng ta đã thấy bất cứ hình thức vận động cao nào cũng bao hàm những hình thái vận động thấp hơn. Nhưng hình thức vận động thấp hơn ấy là hình thức vận động phụ không thể nào che lấp hình thức vận động chủ yếu được. Nên chú ý câu cuối: “Chắc hẳn là một ngày kia... của tư duy chăng?”. Ở đây, Ăngghen muốn nói rằng, nếu nhờ sự tiến bộ của khoa học một ngày kia người ta dựa vào vật lý học, hoá học... để phân tích các quá trình diễn ra trong óc, nhưng không thể nào xoá được hình thức tư duy, là một hình thức vận động cao cấp của con người.

Ăngghen vạch ra rằng thuyết cơ giới của nửa sau thế kỷ XIX là di sản của khoa học cơ giới và của chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII và vạch ra tính chất hết sức phản động của “thuyết cơ giới” thế kỷ XIX, vì khoa học tự nhiên thế kỷ XIX  đã vượt khỏi phạm vi cũ của thuyết cơ giới và những phát hiện của nó đã xác nhận quan điểm biện chứng về tự nhiên. Những người theo quan điểm máy móc ngăn cản khoa học tự nhiên đi vào con đường duy nhất đúng là nhận định những kết quả của khoa học tự nhiên với quan điểm biện chứng duy vật và ra sức đẩy khoa học tự nhiên đi lùi lại với thuyết máy móc của thế kỷ XVIII, do đó gây ra nhiều khó khăn lớn, dẫn khoa học tự nhiên tới những mâu thuẫn không thể giải quyết được.

Những điều Ăngghen phê phán “thuyết cơ giới” đều tập trung trong bài “Quan niệm “cơ giới” về giới tự nhiên”. Trong bài này, Ăngghen phê phán những quan điểm máy móc của những nhà hoá học Kêculê và L.Mayê và của nhà sinh vật học Hếchken. Ăngghen phê phán luận điểm máy móc mà Kêculê dựa vào đó coi vật lý học là tĩnh học và động học về phân tử, và hoá học là tĩnh học và động học về nguyên tử. Ăngghen cho rằng: theo tôi, sự quy kết một cách vô điều kiện ngay cả những quá trình hoá học thành những quá trình thuần tuý cơ học như thế ít ra cũng đã thu hẹp một cách không thích đáng lĩnh vực nghiên cứu của hoá học. Tuy nhiên, điều đó đã trở nên rất hợp mốt đến nỗi Hếchken chẳng hạn, cũng luôn luôn dùng chữ “cơ giới” và chữ “nhất nguyên” theo cùng một nghĩa và theo ông, “sinh lý học hiện đại... chỉ dành chỗ... trong lĩnh vực của nó, cho những lực lý học, hay lực cơ giới theo nghĩa rộng mà thôi”74.

Tiếp đó, Ăngghen trình bày quan điểm của mình về những hình thức vận động cụ thể: “Nếu tôi gọi vật lý học là cơ học của các phân tử, hoá học và vật lý học của các nguyên tử, và sau đó lại gọi sinh vật học là hoá học của các anbumin, thì như thế là tôi muốn nói lên bước quá độ của một ngành khoa học này sang một ngành khoa học khác - do đó nói lên mối liên hệ, tính liên tục cũng như sự khác nhau và tính gián đoạn giữa hai ngành ấy. Đi xa hơn nữa mà cũng gọi hoá học là một loại cơ học, thì tôi cho là không thể chấp nhận được. Cơ học - dù theo nghĩa rộng hay theo nghĩa hẹp - chỉ biết có số lượng, chỉ sử dụng những tốc độ và những khối lượng, nhiều lắm là những thể tích. Ở chỗ nào trên đường đi của nó mà nó gặp chất lượng của các vật thể, tỉ dụ như trong thuỷ tĩnh học và khí tĩnh học, thì nó không thể không nghiên cứu những trạng thái phân tử và những vận động phân tử: bản thân nó, ở đây, chẳng qua chỉ là một khoa học phù trợ, một tiền đề của vật lý học mà thôi”75.

Như vật lý học hiện đại đã xác nhận sự vận động của các hạt nhỏ của vật chất (điện tử, prôtôn, v.v.) không theo quy luật của cơ học cũ, là môn khoa học không thừa nhận các chất khác nhau mà theo quy luật cơ học lượng tử, là môn khoa học có chú ý đến và phản ánh đặc điểm riêng về chất của các hiện tượng thế giới vi mô. Nhưng điều đó tuyệt nhiên không làm giảm ý nghĩa quan trọng của sự phê phán của Ăngghen đối với “thuyết máy móc”, với quan niệm sai lầm quy các hình thức vận động cao thành những hình thức vận động thấp. Cơ học lượng tử có đặc điểm khác với cơ học thông thường về các vật thể lớn, nhưng như vậy không có nghĩa là cơ học lượng tử ra đời thì hoá học và sinh vật học mất đặc điểm riêng về chất và cũng đều quy thành cơ học lượng tử cả, hoàn toàn không phải như vậy.

Trong Biện chứng của tự nhiên, Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm về chất của các hình thức vận động của vật chất: “Chắc hẳn là một ngày kia qua con đường thực nghiệm, chúng ta “sẽ quy” được tư duy thành những vận động phân tử và hoá học ở trong óc; nhưng điều đó liệu có bao quát được hết bản chất của tư duy chăng?”76.

Ăngghen vạch ra chủ nghĩa máy móc đưa tới chỗ toán học hoá các khái niệm khoa học tự nhiên, quy bản chất vật chất của các vật thành những quan hệ thuần tuý về số do đó xét cho cùng là đưa tới chủ nghĩa Pitago, tới chủ nghĩa duy tâm toán học. Theo Ăngghen, thì quan niệm toán học phiến diện cho rằng vật chất chỉ được quy định về số lượng, còn về chất thì xưa nay bao giờ cũng giống nhau, “là một bước lùi về với Pitago là người đã quan niệm rằng số, tính quy định về mặt số lượng, là bản chất của sự vật”77.

Pitago là một nhà triết học lớn người Hy Lạp (571 - 497 tr CN), ông là một nhà toán học, cơ học nổi tiếng nhưng trong triết học ông đứng về lập trường chủ nghĩa duy tâm, ông cho nguyên lý căn bản của thế giới là con số và cho rằng toàn bộ thế giới có cái này và cái kia khác nhau chỉ về số đơn vị đó thôi. Ông khẳng định tất cả những sự vật trên thế giới chỉ có khác nhau về số, phủ nhận sự khác nhau về chất. Những người theo thuyết máy móc” thế kỷ XIX đã quay lại với chủ nghĩa Pitago đó.

3. Phê phán chủ nghĩa Đácuyn xã hội

Đây là tiết cuối cùng của cuốn sách, Ăngghen định phê phán tính chất phản động của chủ nghĩa Đácuyn xã hội tấn công vào chủ nghĩa Mác; đồng thời, làm rõ những vấn đề xã hội và về chủ nghĩa xã hội. Nhưng Ăngghen chưa kịp viết những nội dung trên đây theo như dự kiến trong “Sơ thảo đề cương”. Tuy vậy, Ăngghen đã viết phần sau của tiết này mà trong “Sơ thảo đề cương” gọi là “Lao động phân hoá con người”. Ăngghen bàn đến một vấn đề hết sức quan trọng, đó là “nguồn gốc của con người”. Để có thể trình bày một cách hoàn chỉnh bức tranh biện chứng về giới tự nhiên thì trên cơ sở nghiên cứu phép biện chứng của các hình thức vận động của vật chất thì việc trình bày một cách khoa học vấn đề sự hình thành loài người là một điều hết sức cần thiết. Ăngghen đã làm việc đó. Phần này được gọi là “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người”.

“Lao động sáng tạo ra con người”, đó là cách diễn đạt vắn tắt lý luận Ăngghen về nguồn gốc loài người. Ăngghen đã chứng minh phù hợp với tài liệu khoa học tự nhiên rằng tổ tiên loài người là giống vượn người phát triển cao, trong những điều kiện sinh sống nhất định đã phát triển thành con người hiện đại.

Trong khoa học tự nhiên chúng ta thường nói: con người từ vượn mà ra. Ở đây cách nói như vậy không hoàn toàn đúng, vì nói như vậy người ta hình dung con người là do giống vượn ngày nay mà ra. Thực ra giống vượn hiện nay không thể đẻ ra người được, nó khác với người, như chó sói khác chó thường. Có thể nói, tổ tiên của các loài vượn hiện nay và tổ tiên của loài người giống nhau. Đến một giai đoạn phát triển nào đó có sự nhảy vọt thay đổi về chất và từ một tổ tiên chung đã đẻ ra giống vượn người và giống khỉ. Chính giống vượn người ấy dần dần đã trở thành người.

Bước chuyển quan trọng từ vượn thành người là việc người đi theo tư thế thẳng đứng, hai chi trước được giải phóng tự do hơn hai chi sau để làm những chức năng khác. Khi việc đi thẳng trở thành thường lệ, và sau đó trở thành tất yếu, thì nhờ có bàn tay con người quen làm được nhiều chức năng và chủ yếu nhất trong việc chuyển từ vượn thành người là con người bắt đầu làm ra công cụ. Nên đặc biệt chú ý điều này, bước nhảy vọt có tính quyết định trong việc từ vượn thành người và con người biết làm công cụ, chứ không nên chỉ thấy rằng vượn đi hai chân mà cho đó là một đặc điểm chuyển thành người. Thật ra con vượn khi nào cũng có thể đi hai chân được và nếu chúng ta dậy cho nó thì nó cũng đứng thẳng được. Nhưng không có một động vật nào có thể tự nó làm ra công cụ. Ăngghen khẳng định: “Chưa hề có một bàn tay vượn nào có thể chế tạo ra được một con dao bằng đá dù thô sơ nhất… Nhưng bước quyết định đã được hoàn thành: bàn tay đã được giải phóng, từ đấy, nó có thể đạt được ngày càng nhiều những sự khéo léo mới, và sự mềm mại hơn đã đạt được đó được di truyền lại và cứ tăng lên mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Như vậy, bàn tay không những là khí quan của lao động, mà còn là sản phẩm của lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng được với những động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các cơ, của các gân, và sau những khoảng thời gian dài hơn, cả của xương nữa, và cuối cùng, nhờ luôn luôn áp dụng lại sự tinh luyện thừa hưởng được đó vào những động tác mới, ngày càng phức tạp hơn, - mà bàn tay con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao khiến nó có thể, như một sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Raphaen, các pho tượng của Tôvanxen và các điệu nhạc của Paganim”78.

Như vậy, lao động là điều kiện chủ yếu tách con người ra khỏi giới động vật về mặt sinh lý, nếu như ngày nay con người có một hình dạng khác hẳn với loải vật thì cũng là do lao động, đó là một mặt của quá trình. Mặt khác là sự tổ chức của con người về xã hội, về mặt này vai trò chủ yếu cũng là ở lao động. Trong quá trình lao động nảy ra nhu cầu phải có tiếng nói, có âm tiết, do đó hình thành ngôn ngữ. Ăngghen viết: “Sự phát triển của lao động đã đưa đến kết quả tất yếu là thắt chặt thêm những môi liên hệ giữa các thành viên của xã hội, bằng cách tạo ra rất nhiều trường hợp để cho con người giúp đỡ lẫn nhau hợp tác với nhau, và làm cho con người ngày càng có ý thức rõ rệt hơn về lợi ích của sự hợp tác ấy đối với mỗi thành viên riêng rẽ. Tóm lại, những con người đang hình thành ấy đã phát triển đến mức là họ thấy cần thiết phải nói với nhau một cái gì đây. Nhu cầu đó đã tự nó tạo ra cho nó một khí quan: cái cuống họng chưa phát triển của loài vượn, nhờ uốn giọng mà biến đổi, dần dần nhưng chắc chắn, để có thể thích ứng với một lối phát âm ngày càng phát triển thêm mãi, và các khí quản của mồm cũng dần dần luyện tập được cách phát ra những âm vận nối tiếp nhau...

Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người. Tuy hai bộ óc có rất nhiều chỗ giống nhau nhưng bộ óc con người to hơn và hoàn thiện hơn bộ óc loài vượn rất nhiều. Nhưng khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ óc, tức là các giác quan, cũng song song phát triển theo. Sự phát triển của bộ óc, nói chung, bao giờ cũng đi đôi với sự phát triển của tất cả các giác quan, cũng như sự phát triển tuần tự của ngôn ngữ nhất thiết phải đi đôi với một sự cải tiến tương đương của khí quan thính giác. Mắt chim đại bàng nhìn thấy xa hơn mắt người rất nhiều, nhưng mắt người nhận thấy trong sự vật được nhiều hơn mắt đại bàng rất nhiều. Con chó thính mũi hơn loài người rất nhiều, nhưng nó không có mảy may khả năng phân biệt được những mùi đã giúp cho con người đoán chắc được nhiều sự vật khác nhau. Và xúc giác mà con vượn chỉ mới có dưới hình thức thô sơ nhất, thì nhờ lao động mà đã phát triển song song với sự phát triển của bàn tay con người”79.

Tiếp đó, Ăngghen chỉ ra trong quá trình phát triển công cụ lao động, con người ngày càng mở rộng sự chế ngự thiên nhiên. Những công cụ đầu tiên là công cụ săn bắn và bát cá, có săn bắn và bắt cá cho phép con người dùng cá và thịt làm thức ăn, đó là một bước quan trọng trong quá trình hình thành con người và phát triển trí tuệ của con người.

Ăngghen đã giải thích ý nghĩa của việc này như sau: “Thức ăn bằng thịt chứa đựng, dưới hình thức gần như có sẵn, những chất chủ yếu mà cơ thể cần dùng để trao đổi chất; nó rút ngắn quá trình tiêu hoá, đồng thời cũng rút ngắn cả thời gian của những quá trình thực vật (nghĩa là tương ứng với những hiện tượng sinh hoạt của thực vật) khác trong cơ thể, do đó, mà tiết kiệm được nhiều hơn thời gian, chất và năng lượng cho sự biểu hiện tích cực một đời sống động vật theo đúng nghĩa của nó. Và con người đang hình thành càng cách xa loài thực vật bao nhiêu, thì càng vượt lên trên loài vật bấy nhiêu”80.

Một bước quan trọng trong việc con người chinh phục thiên nhiên, và cũng là bước tách con người ra khỏi giới động vật, là việc con người biết dùng lửa và chăn nuôi súc vật: chế độ ăn thịt đưa đến hai tiến bộ mới, có ý nghĩa quyết định là: dùng lửa và nuôi súc vật. Việc dùng lửa còn rút ngắn quá trình tiêu hoá lại hơn nữa, vì thức ăn cho vào miệng có thể nói là đã được tiêu hoá một nửa rồi; việc nuôi súc vật đã làm cho thức ăn bằng thịt dồi dào hơn nữa, và ngoài nghề săn bắn ra, nó còn mở thêm một nguồn cung cấp mới, đều đặn hơn về thức ăn bằng thịt; và ngoài ra, nó còn cung cấp một loại thức ăn mới, ít ra cũng có những chất bổ như thịt, đó là sữa và các chế phẩm bằng sữa. Như vậy, hai bước tiến đó đã trực tiếp trở thành những phương tiện mới để giải phóng con người”81.

Con người càng chinh phục được thiên nhiên thì càng mở rộng khu vực đất đai cư trú và bắt đầu cư trú ở những vùng có phân biệt mùa nóng và mùa rét, do đó có thêm nhu cầu mới về quần áo và nhà ở, nảy ra nhiều lĩnh vực lao động mới, nhiều hoạt động làm con người ngày càng khác xa loài vật.

Sau cùng, Ăngghen vạch ra chính nhờ lao động mà người ta chuyển từ trạng thái sống bầy đàn của động vật lên tổ chức thành xã hội của con người, và xã hội loài người càng phát triển thì cách tổ chức ngày càng phức tạp hơn cho đến khi có tổ chức nhà nước ra đời. Sự phát triển cao nhất của con người là hình thành bộ óc người biết tư duy, làm cho con người thoát ly hẳn giới động vật và có vai trò tích cực tác động trở lại với giới tự nhiên.

Ăngghen tiếp tục phân tích về sự ra đời của bộ óc người. Ông nêu lên trong điều kiện xã hội nhất định có thể có một ý nghĩa tiêu cực, đó là việc lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay cũng đưa tới chỗ đẻ ra chủ nghĩa duy tâm. Do sự phát triển sức lao động nên phân chưa thành lao động chân tay và lao động trí óc ở đây, Ăngghen vạch rõ nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm. Ăngghen chỉ ra chính việc lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã đủ ra quan niệm sai lạc về vai trò của lao động trí óc. Ăngghen nói về quá trình lịch sử lâu dài ấy như sau: “Nhờ hoạt động phối hợp của bàn tay, của các khí quan phát âm và của bộ óc, chẳng những mỗi cá nhân mà cả trong xã hội nữa, loài người đã có đủ khả năng hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp hơn, có đủ khả năng tự đề ra và đạt được những mục đích ngày càng cao hơn. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, chính ngay lao động cũng ngày càng nhiều vẻ hơn, hoàn thiện hơn, có nhiều mặt hơn. Thêm vào nghề săn bắn và chăn nuôi thì còn có nông nghiệp; và tiếp theo đó, lại có thêm nghề kéo chỉ, dệt vải, nghề làm kim khí, nghề làm đồ gốm và nghề hàng hải. Cuối cùng, nghệ thuật và khoa học ra đời bên cạnh thương nghiệp và công nghiệp; các bộ lạc biến thành những dân tộc và quốc gia pháp luật và chính trị phát triển, và song song với những các đó, cũng phát triển sự phản ánh một cách ảo tưởng tồn tại của con người vào trong đầu óc của con người tôn giáo đứng trước tất cả những cái đã được tạo thành ra đó, những các biểu hiện ra trước hết và những sản phẩm của bộ óc và tựa hồ như đã thống trị các xã hội loài người, thì những sản phẩm tầm thường hơn, do lao động của bàn tay làm ra, đã rơi xuống hàng thứ yếu; và tình hình lại càng là như vậy khi bộ óc biết đặt kế hoạch lao động lại có khả năng, ngay trong giai đoạn phát triển rất sớm của xã hội (thí dụ như trong thị tộc nguyên thuỷ), buộc những bàn tay khác, chứ không phải chính bàn tay mình, phải thực hiện công việc mà mình đã vạch ra. Người ta quy cho bộ óc, cho sự phát triển và hoạt động của bộ óc, tất cả công lao làm cho nên văn minh phát triển nhanh chóng; và đáng lẽ phải giải thích hoạt động của mình từ nhu cầu của mình (những nhu cầu đó tất nhiên đã phản ánh vào đầu óc của người ta và đã làm cho họ có ý thức về những nhu cầu đó), thì người ta lại quen giải thích hoạt động của mình từ tư duy của mình, và chính vì thế mà dần dần xuất hiện một thế giới quan duy tâm, nó thống trị đầu óc con người, nhất là từ khi thời cổ đại suy tàn. Cho đến ngày nay, thế giới quan duy tâm đó vẫn còn thống trị đầu óc con người, đến nỗi ngay cả những nhà khoa học tự nhiên có xu hướng duy vật trong môn phái Đácuyn cũng còn chưa có thể có một ý niệm rõ rệt về nguồn gốc của loài người, bởi vì do ảnh hưởng của cái thế giới quan ấy, họ không nhận thấy tác dụng của lao động trong sự tiến hoá đó”82. Ở đoạn cuối phần trích dẫn, Ăngghen đã nêu bật nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm.

Trong bài “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người”, Ăngghen đã phát triển lý luận cao hơn học thuyết của Đácuyn để giải thích về nguồn gốc hình thành loài người. Trong cách giải thích của Ăngghen về vấn đề nguồn gốc loài người thì vấn đề trọng tâm không phải “sự đào thải tự nhiên” và cũng không phải là “cạnh tranh  sinh tồn”, mà là ảnh hưởng quyết định của lao động và của những điều kiện vật chất bên ngoài. Đácuyn đứng về khoa học tự nhiên để giải quyết nguồn gốc con người và động vật nói chung. Nhưng Đácuyn giải quyết vấn đề này bằng thuyết “đào thải tự nhiên” và “cạnh tranh sinh tồn”, tức là cơ thể nào thích hợp với hoàn cảnh, mạnh hơn thì sống được, mà không thấy được vai trò quyết định của lao động trong quá trình hình thành con người và quá trình cải tạo tự nhiên.

Ăngghen đi sâu phân tích quá trình hình thành con người. Ông cho rằng, con người phát triển lên từ giới động vật và trở thành một động vật có tính xã hội về mặt tâm lý, tư duy con người và loài vật cao cấp cũng có những nét tương đồng và những nét khác biệt. Ăngghen đã phân tích trong đoạn “Lý trí và lý tính” của mục “Lô gích biện chứng”, làm rõ thêm sự khác nhau của con người với loài vật: “Chúng ta và các loài vật đều có chung tất cả các phương thức hoạt động của lý trí: quy nạp, diễn dịch, và do đó cả sự trừu tượng hoá nữa..., phân tích những vật chưa biết…, tổng hệ và thực nghiệm với tính cách là sự tổng hợp hai phương pháp trên.... Xét về bản chất thì tất cả những phương pháp ấy do đó tất cả những phương pháp nghiên cứu khoa học mà lô gích thông thường thừa nhận - đều hoàn toàn giống nhau ở loài người và ở các loài vật cao đẳng. Chúng chỉ khác nhau về trình độ... Những đặc điểm cơ bản của phương pháp đều giống nhau ở người và ở loài vật và dẫn tới những kết quả giống nhau chừng nào mà cả người lẫn loài vật cũng vận dụng hoặc chỉ cùng thoả mãn với những phương pháp sơ đẳng ấy thôi. Trái lại, tư duy biện chứng - chính vì nó lấy sự nghiên cứu bản chất của ngay những khái niệm làm tiền đề - chỉ có thể có được ở con người; và chỉ ở con người đã có một trình độ phát triển tương đối cao (những tín đồ Phật giáo và người Hy Lạp), và chỉ đạt đến sự phát triển đầy đủ của nó mãi về sau này, trong triết học hiện đại”83.

Khi làm rõ sự khác nhau về tâm lý, nhận thức của con người với loài vật, Ăngghen chỉ ra một cách rõ ràng sự khác nhau giữa con người và loài vật trong quan hệ với giới tự nhiên: “Tóm lại, loài vật chỉ lợi dụng giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, chỉ đơn thuần do sự có mặt của nó thôi; còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi đó, mà bắt giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị giới tự nhiên. Và chính đó là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con người và các loài vật khác, và một lần nữa, chính cũng là nhờ lao động mà con người mới có được sự khác nhau đó”80. Nói cách khác, động vật chỉ thích ứng với tự nhiên, còn con người biến đổi tự nhiên và bắt tự nhiên phải phục vụ cho ý muốn của mình.

Đồng thời, Ăngghen cũng vạch ra sự hạn chế của quyền lực chế ngự của con người đối với tự nhiên do sự nhận thức về các quy luật tự nhiên còn ít ỏi và không dự đoán được hết những kết quả cuối cùng của sự tác động của con người đối với tự nhiên.

Sau khi nêu lên những sự việc lịch sử cụ thể về việc con người tác động vào giới tự nhiên, Ăngghen đã cảnh báo chúng ta rằng: “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta, nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác” 84.

Ăngghen khẳng định rằng, do nhận thức được quy luật của tự nhiên mà con người có thể dự báo được những hậu quả của sự tác động của con người vào giới tự nhiên. Nhưng việc dự báo được những hậu quả của hành vi con người trong xã hội còn khó khăn hơn nhiều.

Ăngghen viết: “Nhưng nếu chúng ta đã phải trải qua hàng nghìn năm lao động mới có thể, trong một chừng mực nào đó, đánh giá trước được những hậu quả tự nhiên xa xôi của những hành động sản xuất của chúng ta, thì chúng ta lại càng phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa, mới có thể hiểu biết được những hậu quả xã hội xa xôi của những hành động ấy” 85.

Khi nói đến việc nhận thức những quy luật trong xã hội tư bản, Ăngghen đã nhắc nhở rằng: “... Trong lĩnh vực này, chúng ta cũng phải trải qua một thời gian kinh nghiệm lâu dài và thường là gay go, và phải đối chiếu và nghiên cứu những tài liệu lịch sử, mới có thể dần dần hiểu rõ được những hậu quả xã hội gián tiếp và xa xôi của hoạt động sản xuất của chúng ta, và do đó mà có được khả năng chi phối và điều tiết những hậu quả đó” 86.

Nhưng Ăngghen cho như vậy còn chưa đủ, để con người có thể chi phối, điều tiết được hậu quả của hoạt động sản xuất của mình thì con người phải cải tạo cái xã hội cũ và đặc biệt là xã hội tư bản hiện đại. Bởi vì, xã hội đó xây dựng trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hoạt động sản xuất của con người chỉ hướng vào lợi ích trực tiếp, trước mắt mà thôi. Với tinh thần cách mạng, Ăngghen viết: “Nhưng muốn tiến hành sự điều tiết ấy cho được tốt mà chỉ đơn thuần dựa vào nhận thức thôi thì chưa đủ. Cần phải có sự chuyển biến hoàn toàn trong phương thức sản xuất đã tồn tại cho đến nay, và đồng thời, trong chế độ xã hội hiện tại” 87.

Ăngghen đã nói tới hành động cách mạng xoá bỏ xã hội tư bản, những hành động cách mạng đó dựa trên cơ sở nhận thức được sâu sắc về quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đó, ở phần cuối cùng, Ăngghen đi sâu phân tích vào phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng, những lý thuyết kinh tế học tư sản chỉ là phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản, và chỉ nhìn thấy những kết quả gần nhất, rõ ràng nhất mà không hiểu được những hậu quả gián tiếp, xa xôi.

Những nhà tư bản và những học giả của họ không hiểu được quy luật phát triển của xã hội tư bản nên họ không hiểu được những hậu quả xa xôi của những hoạt động sản xuất, không hiểu được nguyên nhân của cuộc khủng hoảng công nghiệp và không hiểu được mâu thuẫn cơ bản ngày càng sâu sắc, là mâu thuẫn “người lao động thì không có tài sản, còn tất cả của cải đều càng ngày càng tập trung vào trong tay những người không lao động”88.

*  *

*

Tác phẩm Biện chứng của tự nhiên là một tác phẩm triết học lớn của Ăngghen, nó có giá trị về nhiều mặt. Qua tác phẩm này, Ăngghen đã vận dụng phép biện chứng duy vật một cách tài tình sáng tạo để giải quyết những vấn đề cơ bản của khoa học tự nhiên thời bấy giờ. Có thể nêu một cách cụ thể như sau:

Một là, Ăngghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phê phán các quan điểm tư sản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đó là các loại chủ nghĩa duy tâm, như chủ nghĩa duy tâm sinh lý học, chủ nghĩa duy tâm trong toán học, chủ nghĩa Đácuyn xã hội; đó là phương pháp siêu hình, chủ nghĩa máy móc; đó là thuyết không thể biết.v.v.

Hai là, trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ăngghen đã đề ra cách thức, con đường giải quyết những vấn đề cơ bản của khoa học tự nhiên, đồng thời cả một số lĩnh vực cụ thể trong khoa học tự nhiên.

Ba là, Ăngghen đã đưa ra những nhận xét xác đáng về quá trình lịch sử của khoa học tự nhiên, đặc biệt là đã có những dự báo thiên tài, những dự báo này lần lượt đã được sự phát triển của khoa học tự nhiên chứng thực.

Bốn là, những quan điểm của Ăngghen về giới tự nhiên và về khoa học tự nhiên đã bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác, củng cố lập trường duy vật biện chứng cho giai cấp công nhân và chỉ đạo sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?