Về vai trò sáng lập lịch sử triết học của Arixtốt (P.2)

Có thể nói, người đầu tiên nêu ra khuynh hướng cơ bản trong triết học và cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là Platôn, mặc dù ông không quan tâm nghiên cứu, khảo sát các học thuyết triết học của các bậc tiền bối và cũng không có ý thức sử đụng các học thuyết ấy làm cơ sở để luận chứng trong các đối thoại và tranh luận của mình. Nhưng sự thực thì khi giảng bài, đàm luận, tranh luận... Platôn không thể không sử dụng những tài liệu lịch sử triết học. Tuy nhiên, sự vận động, phát triển tư duy triết học luôn tuân theo nhưng quy luật logic của nó và như thế, phải đến Arixtốt thì lịch sử triết học mới ra đời và có một vị thế nhất định. Arixtốt trở thành người đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại theo nghĩa rộng của từ này, còn theo nghĩa hẹp, Anxtốt là người đầu tiên phân loại tri thức khoa học, mặc dù đó mới chỉ là ban đầu, còn rất sơ khai. Vượt lên những người đương thời, Arixtốt đã sử dụng phương pháp logic để điên đạt quan điểm của mình. Xét ở quan hệ này, có thể nói, Arixtốt là bậc tiền bối của Hêgen. Bởi vì, những điểm cơ bản trong quan điểm lịch sử triết học của Hêgen không phải là cái gì khác, mà chính là sự hoàn thiện những ý tưởng của Arixtốt đã phác thảo 23 thế kỷ trước đó. Lênin nhận xét: "Logic của Arixtốt là nhu cầu, là sự cố gắng tìm tòi, là sự đến gần với logic của Hêgen".


Nhằm hệ thống hóa và phân loại tri thức khoa nọc, Arixtốt đã thu thập một khối lượng lớn các tài liệu lịch sử triết học, kể cả tài liệu của chủ nghĩa duy vật và của chủ nghĩa duy tâm, đồng thời sử dụng phương pháp logic - lịch sử để tổng hợp và phân loại các tài liệu ấy. Công lao cửa Arixtốt không chỉ là tổng kết lịch sử triết học thời ấy, mà quan trọng hơn là tìm ra một phương pháp mới phương pháp thống nhất logic lịch sử trong nghiên cứu lịch sử triết học. Arixtốt không chỉ nghiên cứu những quy luật logic của tư duy con người, mà còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết học, phê phán những sai lầm trong học thuyết “con số" của Pitago, học thuyết “ý niệm" của Platôn, chống lại sự đồng nhất cái tồn tại và cái không tồn tại của Pắcmênít. Tên tuổi của Arixtốt gắn liền với việc nghiên cứu các hiện tượng và những sự kiện diễn ra ở những điểm khác nhau trong mối quan hệ với không gian và vận động như một quá trình tạo lập và huỷ diệt, sáng tạo và phá huỷ. Quan niệm của ông là đúng, bởi sự sinh thành, phát triển và diệt vong của vạn vật đều tuân theo quy luật khách quan, không ai có thể làm trái quy luật hoặc đi ngược lại lịch sử.

Chúng ta không thể đặt ra các điều kiện và đòi hỏi các bậc tiền bối phải giải quyết các vấn đề triết học của lịch sử thế này hay thế khác. Xét hoàn cảnh và trình độ nhận thức ở thời ấy thì những gì mà họ làm được thật đáng làm ta kinh ngạc và rất đáng trân trọng. Vấn đề là ở chỗ, họ là những người đi đầu trong việc tạo dựng và thiết lập nên những quan điểm lịch sử triết học đầu tiên, khai phá con đường mà sau này, các nhà triết học của nhiều thời đại đã đi trên con đường ấy.

Tính độc đáo và sâu sắc trong việc xác lập vị thế lịch sử triết học của Arixtốt được thể hiện ở các nguyên tắc: (1) Nguyên tắc quan hệ hữu cơ giữa bản thể luận và phương pháp nghiên cứu trên cơ sở của sự thống nhất giữa cái logic và cái lịch sử.(2) Nguyên tắc nhất nguyên trong xem xét, phê phán các học thuyết triết học. (3) Nguyên tắc kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quan điểm, học thuyết triết học trong ]ịch sử triết học. Có thể tìm hiểu kỹ các nguyên tắc này trong phần I của "Siêu hình học" của Arixtốt, nhất là khi ông bình xét quan điểm triết học về cái tồn tại và cái không tồn tại của Pắcmênít và Kxênôphan. Tìm ra và sử dụng phương pháp logic - lịch sử để nghiên cứu lịch sử triết học, Arixtốt đã chỉ ra mối liên hệ giữa học thuyết triết học của Êmpêđốccơlơ và học thuyết của Anắcxagorơ. Theo Arixtốt, cả hai học thuyết này đều bắt nguồn từ học thuyết của Anắcnmanđơrơ và giữa chúng cũng có sự khác nhau trong việc giải quyết vấn đề khởi nguyên của thế giới.

Có thể nói, trên cơ sở phân tích các học thuyết khác nhau trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, Arixtốt đã hình thành nên phương pháp logic - lịch sử, từ đó đưa ra nguyên tắc nhất nguyên luận trong nghiên cứu lịch sử triết học. Nghiên cứu "Siêu hình học" của ông, chúng ta thấy ông coi lịch sử của tư tưởng triết học chính là lịch sử con người đi tìm chân lý. Theo ông, tìm chân lý trong một mối quan hệ là rất khó, nhưng trong nhiều mối quan hệ thì dễ hơn. Việc tìm chân lý trong lịch sử xã hội không thể dựa vào một vài sự kiện, mà cần phải có sự khảo sát công phu từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều sự kiện khác nhau.

Arixtốt cho rằng, nếu không có sự kế thừa các học thuyết trước đó thì các khái niệm mới đưa ra, các học thuyết mới hình thành chỉ là những tập hợp ngôn từ trống rỗng, không có sức sống. Theo ông, những gì người đương thời có được đều không thể tách rời và xa lạ với tiền nhiệm. Trên cơ sở kế thừa tư duy lý luận và kinh nghiệm lịch sứ, chúng ta tồn tại và phát triển. Các thế hệ kế tiếp sau chỉ có thể bước qua và leo lên nhưng nấc thang mới cao hơn, tiến lên phía trước là nhờ nghiên cứu lịch sử triết học và tiếp thu, kế thừa những mặt tích cực ở những người đi trước.

Với sự nhạy cảm của trực giác, Anxtốt đã nêu ra sự cần thiết phải làm rõ sự khác biệt giữa các học thuyết triết học, tính quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của nhà triết học đối với sự phát sinh, phát triển của mỗi học thuyết triết học. Có như vậy mới tìm ra được các khía cạnh khác nhau của sự phát triển lịch sử triết học, tìm ra mặt tiến bộ, tích cực để kế thừa, đồng thời lọc bỏ những hạn chế, không phù hợp, không có giá trị, không có ý nghĩa.

Tuy nhiên, sau khi Arixtốt qua đời, những người kế tục ông đã không làm được cái mà ông mong muốn. Phương pháp logic - lịch sử được các học trò của ông vận dụng, nhưng không đạt được trình độ mà bậc thầy của mình đã có. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học phát triển rất chậm chạp. "Chủ nghĩa thầy tu đã giết chết cái gì là sống động ở Arixtốt và làm thành bất tử cái gì đã chết rồi". Những gì mà Arixtốt đã làm và chuẩn bị cho sự phát triển lịch sử triết học chỉ được thực hiện từ khi có triết học Phục hưng đến nay.

Những điều mà chúng tôi nêu trên chỉ là nhằm làm rõ cái điềm khởi đầu lịch sử triết học và coi Arixtốt là người đại diện cho điểm khởi đầu ấy với tư cách là người sáng lập ra môn học này, mặc dù đó chỉ là sự mở đầu với nội dung chưa thật rõ ràng và hình thức còn rất sơ khai. Toàn bộ sự vận động, phát triển của lịch sử triết học và những thành tựu mà nó đạt được sau này không thể tách rời điểm khởi đầu ấy. Có thể còn có nhiều cách tiếp cận và luận giải vấn đề này. Song, tên tuổi, sự nghiệp và những cống hiến của Arixtốt đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử triết học đã được khẳng định.

Nguyễn Bá Dương
Tạp chí Triết học
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?