Vài nét về chủ nghĩa thực chứng (Positivism, Positivisme)

Gốc thuật ngữ Latinh: positivus - tích cực. 

Một số nhà nghiên cứu cho rằng vào thế kỷ XIX xuất hiện ba tên tuổi lớn, thực hiện cải tổ trong triết học và khoa học sự sống, đó là A. Comte (1798 - 1857), K. Marx (1818 - 1883), Ch. Darwin (1809 - 1882). A. Comte là người sáng lập chủ nghĩa thực chứng. 

Comte sinh tại Montpellier trong gia đình Kytô giáo. Là người có cá tính mạnh ngay từ tuổi 14 Comte đã tuyên bố không tin vào Chúa. Comte chống lại cả gia đình, chỉ trích gia đình là tham lam và đạo đức giả. Do có tư tưởng phản kháng Comte bị đuổi học ngay từ năm đầu trường Đại học bách khoa. Comte chịu Ảnh hưởng trực tiếp của thế hệ các nhà khai sáng cùng thời với cách mạng 1789. 

1817 - làm thư ký cho Saint Simon
1824 - tuyệt giao với Saint Simon
1825 - cưới vợ, nhưng chia tay ngay sau đó
1826 - thuyết trình tư tưởng, công bố “Giáo trình triết học thực chứng”
1845 - hôn nhân lần thứ hai; vợ chết sau đó một năm
1857 - qua đời trong cô đơn và khốn khổ. 


Chủ nghĩa thực chứng của Comte thuộc vào loại thực chứng xã hội học. 

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” có nghĩa gì ? Comte giải thích: chủ nghĩa thực chứng - đó là triết học của tri thức khoa học tự nhiên thực chứng nghiệm. Các tri thức khác đều là giả hiệu, tầm thường. Nhiệm vụ của chủ nghĩa thực chứng là chỉ ra tri thức nào là tri thức khoa học đích thực, tri thức nào là tri thức giả hiệu, tầm thường. Tri thức giả hiệu, tầm thường là Siêu hình học truyền thống. 

Theo suy nghĩ của Comte tôn giáo truyền thống và chủ nghĩa duy tâm không còn thích hợp nữa. Giờ đây cách mạng xã hội đã phát huy hết tác dụng của mình, thay vào đó là nhu cầu cách mạng kỹ thuật, góp phần kiến tạo xã hội mới. Chủ nghĩa duy tâm giàu sức tưởng tượng và vượt lên trên hiện thực khó mà đáp ứng đòi hỏi bám sát hiện thực để làm thay đổi chính nó. Trong khi đó chủ nghĩa duy vật và vô thần lại quá cứng nhắc, không tính đến nhu cầu phong phú của đời sống. Comte chống cả ba: chống chủ nghĩa duy vật thô thiển, chống chủ nghĩa duy tâm tư biện, chống tôn giáo thần quyền. Comte gọi triết học truyền thống là siêu hình tư biện. Giải pháp khắc phục nó chỉ có thể là thứ triết học vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đối đầu duy vật - duy tâm, vô thần - tôn giáo, hay nói thẳng ra là vứt bỏ cả hai sự đối đầu, thay các suy luận mơ hồ bằng tri thức hữu dụng, dựa trên các thành tựu và các dữ kiện của khoa học cụ thể. Comte tuyên bố, nếu triết học được xây dựng trên nền tảng khoa học tự nhiên thực nghiệm, loại trừ siêu hình học cũ, thì chắc chắn nó sẽ tiến bộ hơn so với triết học truyền thống. Trong Giáo trình triết học thực chứng Comte chỉ ra bốn chức năng, đồng thời là bốn ưu thế của triết học thực chứng. Một là, việc nghiên cứu triết học thực chứng tạo nên một công cụ lý tính duy nhất làm bộc lộ các quy luật lôgíc của tư duy con người, cái mà cho đến nay được xác định bằng các phương pháp không mấy phù hợp. Comte cho rằng kể từ thời F. Bacon đến nay chủ nghĩa thực chứng đã có được diện mạo rõ ràng đến mức các nhà siêu hình học đã “lợi dụng” nó để phổ biến tri thức giả hiệu của mình. Tuy nhiên, do thói quen tư duy sáo mòn, bất chấp những đòi hỏi của cuộc sống đang ngày thêm đa dạng, mà Siêu hình học chỉ dừng lại ở những phán quyết thiếu tính hiệu quả. 

Đối lập với phương pháp của Siêu hình học cũ, phương pháp thực chứng có thể được đánh giá chỉ trong hành động, và thông qua “ứng dụng chuyên nghiệp”. Hai là, triết học thực chứng đóng vai trò tích cực trong việc cải cách nền giáo dục, vốn bị thương tổn bởi thần học, Siêu hình học và văn chương. Giáo dục thực chứng cần thay thế nền giáo dục thiếu hiệu quả và thiếu sâu sắc, từng bước nâng nó lên tầm cao mới, phù hợp với thời đại bằng phương pháp tổng hợp tri thức và áp dụng “chuyên sâu”. Ba là, khả năng khái quát và phân loại khoa học theo quan điểm thực chứng. Khả năng xác lập các lĩnh vực khoa học thực chứng riêng biệt trên cơ sở khoa học thực chứng căn bản tạo điều kiện trình bày hệ thống tri thức khoa học theo một trình tự hợp lý và mang tính phát triển, kế thừa. Quan điểm thực chứng đòi hỏi từ bỏ sự nghiên cứu phù phiếm phía sau những quan niệm tuyệt đối, nguồn gốc, giới hạn của vũ trụ và những thứ tương tự, kết hợp một cách chính xác lý luận và quan sát, tư duy và thực chứng; triết học này chắc chắn thúc đẩy sự phát triển của các khoa học thực chứng riêng biệt. Bốn là, triết học thực chứng, với đặc điểm của mình, đem đến cơ sở vững chắc để tái tổ chức đời sống xã hội, khắc phục tình trạng hỗn loạn và trì trệ, hướng xã hội vào trật tự, ổn định và không ngừng phát triển. 

Kết thúc Giáo trình, Comte tuyên bố về sự tất thắng của “cách mạng trong tư duy con người”, khẳng định rằng mình đã hoàn thành hoạt động trí tuệ lớn lao, được bắt đầu từ Bacon, Descartes và Galilei, bằng việc xây dựng một hệ thống tư tưởng chung, cái mà từ nay về sau phải trở thành cái chủ đạo trong hoạt động của con người (Xem A. Comte. Course of positive philosophy, Chapter 1. Dẫn từ History Guide - http://www. papesz. net). 

Như vậy chủ nghĩa thực chứng đặt ra cho mình hai nhiệm vụ là nêu và chứng minh tri thức đích thực; phê phán, tiến tới thủ tiêu tri thức tầm thường, với sự hỗ trợ của lôgíc học. 

Những dấu hiệu đặc trưng của khoa học “đích thực”, theo Comte, là tính khách quan, tính hiện thực(khoa học nói về các hiện tượng được quan sát, chứ không phải trí tưởng tượng), tính chính xác (khoa học xét về tính chính xác cần phải đến gần với toán học), tính hữu dụng (khoa học cần phải đem đến cho con người thành quả hiện thực, nói cách khác khoa học phục vụ cho hành động), tính tương đối (khoa học chỉ đem đến cho chúng ta tri thức tương đối, dựa trên cơ sở cảm tính, gắn liền với cơ cấu tâm, sinh lý nhất định của con người; tri thức đem đến cho chúng ta “vật cho ta”, chứ không phải “vật tự nó”). 

Quy luật về ba giai đoạn phát triển lịch sử của tri thức: 

Giai đoạn thần học, phạm vi tri thức bị hạn chế, sự hoang tưởng thống trị trong tư duy. Con người giải thích giới tự nhiên một cách lệch lạc, vì thừa nhận sự tồn tại của những lực lượng siêu nhiên huyền bí - Thượng đế, thần thánh, ma quỷ. Trong cuộc sống thực tiễn uy quyền thống trị với sức mạnh vô hạn. Trong đời sống chính trị - giai đoạn thống trị của nền quân chủ. 

Giai đoạn siêu hình, thay Thượng đế bằng tự nhiên hay một bản thể trừu tượng nào đó như bản nguyên đầu tiên. Các sức mạnh bị phân tán. Đây là trạng thái chuyển tiếp trong sự phát triển của xã hội. Uy quyền suy yếu, mối liên hệ xã hội suy giảm, chủ nghĩa vị kỷ gia tăng trong mỗi cá nhân. Tư duy giác tính (trí năng) phát triển. Trong đời sống chính trị quyền lực quân chủ được thay bằng quyền lực của nhân dân. 

Giai đoạn thực chứng, hay khoa học, đoạn tuyệt với thần học và siêu hình học, cải cách đời sống xã hội trên cơ sở tri thức thực chứng nghiệm. Tri thức này không chỉ do toán học, thiên văn học, vật lý học, hóa học, mà còn do sinh học và xã hội học, tức khoa học về xã hội, đem đến. 

Mục đích của khoa học thực chứng, cũng như khả năng của nó, là làm sáng tỏ trật tự và các quy luật của tự nhiên và xã hội. Tất cả những vấn đề siêu hình, vấn đề bản chất của tồn tại, được tuyên bố là không thể giải quyết, vô bổ. Comte hiểu các quy luật của tự nhiên và xã hội như kết quả của quá trình quan sát những mối quan hệ thường xuyên giữa các hiện tượng. Chỉ có khoa học đích thực, khoa học thực chứng, mới nhận thức tương đối đầy đủ và chuẩn xác những mối quan hệ này. Giai đoạn thực chứng khắc phục mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn, vốn có ở giai đoạn siêu hình. Nhận thức các quy luật cho phép dự báo những diễn biến trong tương lai của tự nhiên và xã hội. 

Nhận xét gì về học thuyết ba giai đoạn tri thức của Comte ? Học thuyết ba giai đoạn cố gắng bám sát vào sự vận động của tri thức, và gắn với nó là các bước trưởng thành của loài người. Nhưng đó là một thiết kế duy tâm. Động lực của tiến bộ xã hội được gán cho sự tiến bộ của tri thức, thể hiện ở bước chuyển từ quan niệm tôn giáo về các thực thể siêu nhiên sang khái niệm trừu tượng về tự nhiên, và từ khái niệm này sang khoa học thực chứng. 

Phân loại khoa học. Xã hội học. 

Comte phân chia các lĩnh vực khoa học theo nấc thang thấp dần (cấu trúc hình chóp) căn cứ vào tính giản đơn và tính trừu tượng của chúng. 

Khoa học cơ bản đầu tiên là toán học, khoa học về những khách thể đơn giản nhất, đồng thời là khoa học trừu tượng nhất trong số các khoa học. 

Các khoa học tiếp theo gồm có thiên văn, vật lý, hóa học, sinh học, và cuối cùng là “vật lý xã hội”, hay xã hội học. Các khoa học đi sau không thể đơn giản rút ra từ các khoa học đi trước, bởi lẽ chúng phức tạp hơn về cấp độ. Cái sau tuân thủ các quy luật chung của tất cả các giai đoạn phát triển từ trước cho đến lúc đó, đồng thời lại có các quy luật đặc trưng của riêng mình. Bảng phân loại khoa học này, theo Comte, sẽ phục hồi trật tự tự nhiên và trật tự lịch sử của các khoa học đã hình thành từ lâu. Chẳng hạn, toán học chiếm vị trí đầu tiên trong bảng phân loại khoa học không chỉ vì nó là khoa học ra đời sớm nhất, mà còn vì nó là khoa học đơn giản xét như khoa học thực chứng, gắn với sự sinh thành loài người. Tương tự như vậy xã hội học, khoa học cuối cùng trong bảng phân loại, được xác định bằng các dấu hiệu của tính phức tạp và tính cụ thể, cũng đồng thời là khoa học muộn nhất gia nhập vào khoa học thực chứng. 

 Hiểu theo nghĩa rộng xã hội học là khoa học về các lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội, là khoa học tổng hợp, thống nhất các ngành khoa học khác. Chức năng của xã hội học là tìm hiểu các vấn đề của con người, phát hiện và phân tích các quy luật vận động của xã hội, qua đó góp phần tổ chức đời sống xã hội. Vấn đề mấu chốt, theo Comte, là “phát hiện”quy luật vận động. Quy luật xã hội phức tạp hơn quy luật tự nhiên, bởi lẽ đời sống con gnười phức tạp hơn tự nhiên. Cái thứ nhất hình thành từ hoạt động của con người, cái thứ hai - từ hoạt động mù quáng và vô thức của tự nhiên. Thuật ngữ “vật lý xã hội” mà đôi khi Comte dùng thay cho “xã hội học” là sự vay muợn từ T. Hobbes, nhà triết học Anh thế kỷ XVII với học thuyết Khế ước xã hội nổi tiếng. Vật lý xã hội, theo Hobbes, xem các “vật thể xã hội” là đối tượng nghiên cứu của mình. Nếu trong tự nhiên có lực hút và lực đẩy, thì trong trạng thái tự nhiên của loài người có “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Comte chỉ vay mượn thuật ngữ, chứ không vay mượn cách tiếp cận đã thuộc về quá khứ của Hobbes. 

Theo môtíp vật lý học Comte chia xã hội học ra thành tĩnh lực học xã hội và động lực học xã hội.

Tĩnh lực học nghiên cứu trạng thái “tĩnh” của xã hội, gồm các qunn hệ, kết cấu, tính chất xã hội, những điều kiện tồn tại của xã hội, nói khác đi, nó nghiên cứu trật tự bền vững tương đối của xã hội. 
Ba vấn đề cơ bản của tĩnh lực học: cái gì chi phối thường xuyên hoạt động (có lý trí) của con người ? Đơn vị nền tảng của xã hội là gì ? Nguyên tắc nào đóng vai trò chủ đạo trong đời sống cộng đồng ?

Đối với vấn đề thứ nhất câu trả lời là tình cảm, ý chí và bản năng nói chung, trong đó có bản năng sinh tồn, hoạt động truyền giống, hướng đến lợi ích. Trong hai loại bản năng - bản năng cá nhân (tìm kiếm lợi ích cho mình) và bản năng xã hội (xem lợi ích xã hội là căn bản) - thì cái nào chi phối cái nào ? Do chỗ xã hội được hình thành từ những cá nhân sống, nên lợi ích cá nhân chi phối lợi ích xã hội. Điều này có nghĩa là nếu thủ tiêu lợi ích cá nhân, thì hoạt động xã hội cũng trở nên vô nghĩa và mất phương hướng. Lẽ cố nhiên cá nhân được đề cập đến ở đây không phải là những cá nhân vị kỷ tàn nhẫn, mà tự đặt mình trong quan hệ hài hòa, bền chặt với những người khác, với cái toàn thể, với cộng đồng. 

Đối với vấn đề thứ hai câu trả lời đơn giản hơn. Theo Comte, xã hội không phải là phép cộng của những cá nhân riêng lẽ, mà là tổng thể quan hệ giữa các thành tố hữu cơ, trong đó gia đình là đơn vị nền tảng, hay nói một cách hình tượng, là hình Ảnh thu nhỏ của xã hội. 

Nếu gia đình là tế bào của xã hội, thì các nguyên tắc hình thành trong sinh hoạt gia đình có ý nghĩa to lớn đối với việc xác lập các chuẩn mực và các quy tắc ứng xử xã hội. Đồng cảm và phục tùng là nguyên tắc chủ đạo trong đời sống chung. Đồng cảm liên quan đến đạo đức, phục tùng thuộc về lĩnh vực pháp luật. Tác dụng của việc tuân thủ nguyên tắc này là đời sống xã hội không bị xáo trộn. Nguyên tắc đồng cảm của Comte mang đậm dấu ấn của “tình yêu phổ quát” của triết học nhân bản Feuerbach. Sự đồng cảm quy về quan hệ chân chính, đích thực con người, còn lòng hận thù, đố kỵ - quan hệ không chân chính, không con người. 

Động lực học nghiên cứu trạng thái “động”, nghĩa là phát hiện các quy luật vận động và phát triển của xã hội, tìm hiểu tiến bộ xã hội. Vai trò quyết định của tiến bộ xã hội là hoạt động tinh thần, lý trí, là giáo dục - sự chuẩn bị thường xuyên cho mỗi cá nhân nắm lấy vận hội lịch sử để phát triển và điều chỉnh hành vi của mình. Hoàn thiện đạo đức là tác nhân kích thích sự dấn thân của con người trong cuộc sống. Tiến bộ của nhân loại về mặt thời gian là minh chứng cho những đổi thay của hoạt động lý trí, tinh thần, đạo đức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Các điều kiện khác, trong đó có điều kiện vật chất, khí hậu, khoáng sản tự nhiên …làm nhanh hay chậm sự phát triển xã hội, nhưng không quyết định. Không có con người hoạt động thì những yếu tố vừa nêu mất đi giá trị nhân bản của chúng. 

Trong việc xác định dòng chảy không ngừng của lịch sử Comte chủ trương quan điểm về tính thống nhất, bất khả phân của lịch sử. Theo Comte, cách phân chia các thời kỷ lịch sử phổ biến đối với các dân tộc trên thế giới là cách phân chia theo niên đại, nhờ đó mà chúng ta có thể hình dung về một bức tranh lịch sử sống động nhưng thống nhất trong tiến trình chung, mà ở đó mỗi dân tộc đều để lại dấu ấn của mình. 

Quan hệ tĩnh lực học - động lực học là quan hệ chi phối và lệ thuộc vào nhau. Tư tưởng chủ đạo là ổn định để phát triển, phát triển trong ổn định, tiến bộ trong khuôn khổ trật tự. Comte không thừa nhận cách mạng xã hội, vì nó phá vỡ trật tự. Không tiến bộ nào, không sự phát triển nào, nhất là trong đời sống con người, lại rắp tâm phá vỡ những chuẩn mực đã được thừa nhận, để rơi vào trạng thái vô chính phủ. Chủ nghĩa thực chứng ở bình diện xã hội học = Tình yêu - Trật tự - Tiến bộ. Những năm cuối đời Comte suy nghĩ về việc xác lập tôn giáo mới theo kiểu “tôn giáo không có Chúa” của Feuerbach, với tên gọi khác - Nhân đạo giáo, biến đối tượng sùng bái từ Chúa trời sang Loài người (chứ không phải Con người). Nhân đạo giáo, cũng như Kytô giáo, có tổ chức của mình, với những phẩm hàm và thứ bậc khác nhau, từ tín đồ, đến các tăng lữ, và cao nhất là giáo chủ. 

Khởi đầu sự nghiệp bằng tư tưởng chống tôn giáo, giờ đây Comte lại trở về với tôn giáo đặc biệt của ông - Nhân đạo giáo. 


Triết học+ 
triethoc.info - triethoc.net


Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?