Sự phân loại khoa học của Aristoteles

Arixtốt (Aristoteles, 384 - 322 TCN) - học trò xuất sắc của Platôn - sinh tại Xtagirơ (Stagire)cách Aten về phía bắc 300km, một thuộc địa của xứ Maxêđônia (Macedonia). Sự nghiệp sáng tác của ông trải qua ba thời kỳ chính: thời kỳ Aten lần thứ nhất, hay thời kỳ Hàn lâm viện (367 - 347 TCN), chịu Ảnh hưởng trực tiếp của Platôn; thời kỳ viễn du (những năm 40 - đầu 30 TCN), phê phán một số luận điểm nền tảng trong triết học Platôn, nhất là học thuyết về tồn tại; thời kỳ Aten lần thứ hai (những năm cuối đời), mở trường phái triết học ở Lixê (Lycei), được gọi là phái Tiêu dao (Peripatetic school). 

Sự nghiệp sáng tác của Arixtốt thật đồ sộ. Ngoài triết học ông còn thâm nhập hầu như vào tất cả các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, để lại nhiều công trình có giá trị. 

Có thể phân loại di sản triết học của Arixtốt theo ba nhóm, căn cứ vào đối tượng nghiên cứu và tính hoàn thiện về tri thức. Nhóm thứ nhất là các khoa học lý thuyết, lấy tri thức làm đối tượng (siêu hình học, tức triết học thứ nhất, vật lý học, tức triết học thứ hai, toán học, lôgíc học). Đ6í tượng của siêu hình học (metaphysics) là những gì tồn tại “đằng sau” (meta) tự nhiên hữu hình. Tự nhiên ở Arixtốt không đồng nhất với thực tại. Thực tại, hay cái đang tồn tại, được Arixtốt diễn đạt bằng từ “on”, “onta”, để phân biệt với tồn tại (“to einai”). Thực tại rộng hơn tự nhiêntự nhiên chỉ là một phần thực tại. Vì đi sâu bản chất phi cảm tính, vĩnh cửu, nên triết học thứ nhất, tức siêu hình học, được nâng lên cấp độ khoa học về thần, nhưng rộng hơn cả thần học, vì nó bao quát toàn bộ nguyên nhân và bản chất của thực tại. 


Nhóm tiếp theo là các khoa học thực hành, lấy hành động làm đối tượng (đạo đức học, chính trị học, kinh tế học). Trên thực tế ba khoa học “thực hành” vừa nêu không được Arixtốt phân tích riêng biệt, mà gắn kết với nhau trong cùng hệ thống. 

 Nhóm cuối cùng là các khoa học sáng tạo, lấy những gì hữu ích và gây ấn tượng do con người sáng tạo ra làm đối tượng (nghệ thuật, thi ca, các khoa học ngôn ngữ, các hoạt động kỹ thuật). 

Trong trình tự nghiên cứu của triết học Arixtốt đầu tiên là lôgíc học (ông gọi khoa học này là “phép phân tích”, hoặc organon, tức công cụ của tri thức, nhưng thuật ngữ lôgíc học lại do các nhàn triết học Khắc kỷ nêu ra muộn hơn) như nhập môn vào các khoa học khác, tiếp theo là vật lý học (kể cả sinh vật học, tâm lý học), tìm hiểu tự nhiên vô cơ và đời sống sinh thể từ bậc thấp nhất đến loài người, thứ ba là siêu hình học, nghiên cứu bản chất của tồn tại, cuối cùng là đạo đức học, kinh tế học, chính trị học và các khoa học ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật. 

Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?