Một số nội dung cơ bản của triết học hiện sinh

Khuếch trương chủ quan tính là nét nổi bật của triết học hiện sinh. Con người như một tồn tại giữa vũ trụ, nhưng xét về ý nghĩa văn hóa, có thể vượt lên trên vũ trụ, như Pico Della Mirandola (thời Phục hưng) từng khẳng định. Con người vừa gán cho vũ trụ những giá trị như mình muốn, vừa tự quy định một cách tự do. Khi con người đã ý thức được chủ quan tính của mình, thì mọi cái thiêng liêng thần thánh, mọi thứ diễn ra trong vũ trụ không có gì đáng kể so với con người. Trong chủ nghĩa hiện sinh sự đề cao chủ quan tính có thể dẫn tới tinh thần phản kháng đối với những ràng buộc của guồng máy xã hội: không ai và không có gì buộc tôi phải suy nghĩ và hành động thế này thế nọ; tôi có quyền xác định cho mình một ý nghĩa hiện sinh đích thực, miễn sao điều đó không xúc phạm đến tư cách cá nhân của tôi. 

Đề cao chủ quan tính trước tiên là đề cao tự do, tự do lựa chọn. Tự do là một trong những phạm trù được nhắc đến nhiều nhất trong chủ nghỉa hiện sinh. Tuy nhiên tự do mà chủ nghĩa hiện sinh đề cao không phải là một xã hội tự do, mà là tự do tự tại, tự do trong quan hệ với chính mình. Đối với một số nhà triết học hiện sinh tự do cá nhân còn có nghĩa là không chấp nhận bị chìm lẫn vào khối đông đảo “người ta”, “tha nhân”. Tự do hiện sinh thể hiện rõ trong tự do lựa chọn một nghề nghiệp, một hướng đi, một chỗ đứng trong cuộc sống, nhằm “đạt tới chỗ trung thực nhất của cá nhân” (Sartre). 

Một số vấn đề khác thường gặp: 
+ Sự phân thân, tha hóa. Sartre nói về “buồn nôn” và “sống thừa”. “Buồn nôn” biểu thị trạng thái lưỡng giá nhị phân của tôn tại người; một đằng là những ẩn ức, dồn nén, đằng khác là khát vọng nồng cháy vươn lên cái cao cả; một đằng là những mối liên hệ tất yếu với thế giới, đằng khác là cảm giác về một thế giới ngẫu nhiên vô cố và xa lạ; một đằng là sức hấp dẫn của tồn tại xung quanh, đằng khác là tâm trạng chán chường, muốn trôn chạy khỏi thế giới đầy bất trắc, tai ương (cái chết có thể ập đến bất ngờ, cắt đứt sợi chỉ mong manh của cuộc sống, nói khác đi, cuộc sống cá nhân quá dòn, mỏng). “Sống thừa” là một diễn đạt nói về tình trạng “không mợ chợ vẫn đông” trong một thế giới sôi động, phức tạp, đầy tính cạnh tranh, mà cạnh tranh phổ biến nhất là cạnh tranh để được tôn tại. Do đó “ưu tư”, “xao xuyến”, “lo âu” được Heidegger xem như xuất thể tính đặc trưng của con người. Các nhà hiện sinh, nhất là hiện sinh theo phương án Pháp, thường xuyên nhắc đến nỗi sợ hãi, tình thế tranh chấp, cái chết, hư vô, sự phóng thể … nhằm khắc họa bức tranh ảm đạm của tồn tại cá nhân lẫn tồn tại ở bình diện toàn nhân loại. Suy tư “mỗi sáng giở một tờ lịch cảm thấy mình tiến gần hơn đến nấm mồ” đưa tới câu hỏi “phải chăng hiện hữu để … chết ?”. 

+ Vấn đề trách nhiệm con người. Bên cạnh bức tranh không mấy sáng sủa về thân phận con người nhiều nhà hiện sinh đề cao (hay đánh thúc) các giá trị người, hiện diện trong mỗi cá nhân. Một là nhấn mạnh tính độc đáo, tính sáng tạo, không lặp lại của cá nhân trong sự so sánh với những cá nhân khác. Mọi sự cào bằng, san phẳng những cái Tôi dó đều bị phê phán. Hai là đề cao sự tự chủ và tinh thần “dám liều” trong hoạt động sống. Ba là đòi hỏi mỗi cá nhân ý chí tiến thủ, khát vọng vươn lên, không bằng lòng với chính mình, không tự mãn với những gì mình đã đạt được. 

Ba diện mạo con người (khái quát): 
+ Con người phân thân, tha hóa, cô đơn giữa thế giới dửng dưng, cảm nhận sự dòn, mỏng của hiện hữu cá nhân, tâm trạng “chán sống”. 

+ Con người phản kháng, chống lại “tha nhân”, “người ta” để tìm lại chính mình, dù đó là sự tìm kiếm không mấy thành công. 

+ Con người khát vọng, có trách nhiệm với số phận chung của nhân loại (trong “Dịch hạch” A. Camus tuyên bố rằng “con người cần phải trở thành chính mình” theo nghĩa chân chính nhất của từ đó). Hiểu thế nào về chủ nghĩa cá nhân hiện sinh? Chủ nghĩa hiện sinh đề cập đến con người cá nhân với tất cả những tính cách mâu thuẫn nhau của nó, nhưng không đề cao tính vị kỷ, mà thực ra xem xét nó trong sự đối chiếu với môi trường xã hội đôi khi “hoà tan”, “san phẳng” cá nhân dưới tác động của “trung bình tính”, của những chuẩn mực đã được thừa nhận. Do đó sự phản kháng hiện sinh có thể triển khai theo hai hướng - tích cực và tiêu cực, văn hóa và phản văn hóa. Tuy vậy nhiều nhà hiện sinh từ hình Ảnh con người cá nhân đã suy tư về tình thế “tranh xhấp” của nhân loại. Chủ nghĩa hiện sinh, như cách thể hiện của nó, không răn dạy con người bằng những sáo ngữ và những mệnh lệnh xơ cứng, mà gợi mở suy nghĩ của con người về trách nhiện cá nhân đối với bản thân và những người khác. Điều này giải thích vì sao ở miền Nam trước năm 1975 người ta chịu Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ở hai chiều hướng khác nhau: một bộ phận trí thức đọc hiện sinh và cảm nhận sự mời gọi “dấn thân”, hành động chống lại sự phi lý của cuộc sống, một số khác lại tìm thấy ở đó thái độ bi quan, nổi ưu tư, xa xuyến, cảm giác “bị quăng ném”, và chấp nhận cuộc sống buông thả, thậm chí thác loạn, với những biện minh phản văn hóa. 

Hình Ảnh con người trong chủ nghĩa hiện sinh được cô đọng trong một công trình nghiên cứu của E. Mounier - Những chủ đề của triết học hiện sinh (Thụ Nhân dịch, Sài Gòn, 1970). Tác giả nêu ra 12 luận đề cơ bản: 

1) Sự bất tất của cuộc sống con người. Sống thừa - “không mợ chợ vẫn đông”. Cảm giác sống thừa, bị quăng ném, bị bỏ rơi rất có thể dồn đẩy cá nhân đến hình thức khẳng định cực đoan - tự tử. Chẳng phải ngẫu nhiên A. Camus cho rằng một trong những vấn đề nghiêm trọng cần quan tâm là vấn đề tự tử, nghĩa là một hành vi trái với khát vọng sống phổ biến. J. Sartre viết trong “Buồn nôn”:”Chúng ta vốn là một “đống” những kẻ tồn tại trong cẢnh bối rối, lúng túng về chính bản thân mình; người này cũng như kẻ khác, chúng ta không mảy may có lý do tồn tại; và mỗi một kẻ tồn tại, bối rối, lo lắng một cách mơ hồ, cảm thấy mình là người thừa đối với những người khác. Thừa, đó là mối quan hệ duy nhất tôi có thể lập được giữa những thân cây, những bờ rào, những viên sỏi này với nhau…Tôi mơ màng nghĩ chuyện tự tiêu diệt mình để thủ tiêu ít nhất cũng một trong những cuộc đời thừa. Nhưng thậm chí cái chết của tôi cũng có thể thừa. Xác tôi, máu tôi trên lớp sỏi, giữa những thân cây kia, ở cuối công viên vui tươi này, đều thừa. Và thịt da tôi bị gặm nhấm cũng sẽ thừa trong lòng đất đón nhận nó; cuối cùng, xương tôi, được lau chùi, tẩy rữa, sạch bong như những chiếc răng, cũng sẽ thừa: tôi thừa đối với cõi vĩnh hằng”. 

2) Sự bất lực của lý trí. Lý trí con người bất lực trong việc tìm hiểu về số phận mình. Do đó cần phải sống theo tiếng gọi của tâm hồn, của xúc cảm, con tim. Những xung động ấy đưa ta đến với con người sống thực, từ sự nếm trải mà cảm nhận bản thân mình và hững người xung quanh mình. 

3) Sự nhảy vọt của con người. Chủ nghĩa hiện sinh không phải là thứ triết học của sự lo âu, vô vọng, mà của sự can đảm, mặc dù là can đảm trong tuyệt vọng!

4) Sự dòn mỏng của con người, tình thế tranh chấp. Lúc nào con người cũng bị đe doạ bởi cái chết. Cái chết đôi khi ập đến bất ngờ, cắt đứt sợi chỉ mong manh của cuộc sống. Mỗi ngày tờ lịch sang trang là như mỗi ngày ta tiến gần hơn tới cửa mồ. 

5) Sự phóng thể, vong thân. Con người mỗi ngày lại đánh mất một phần cái Tôi của mình vào hoàn cẢnh và Tha nhân. Một đằng là khát vọng tự khẳng định, đằng khác lại không thể làm chủ được mình trước tha nhân, bị tan biến vào đó. Đó là sự tha hóa (vong thân), sự đánh mất mình, và chấp nhận đối diện với cái Tôi bị đánh mất kia như cái xa lạ. “Tôi muốn, nhưng tôi không thể”. Chỉ khi trở lại thành chính mình, mình mới thấy tự chủ trong cô đơn. Hiện hữu trung thực và hiện hữu dối lừa qua mặt nạ của tồn tại giữa tha nhân. 

6) Đời người có giới hạn, thần chết lại vội vã. Giới hạn sinh tử là một giới hạn cho thấy sự hữu hạn của tồn tại người. Chúng ta sinh ra để rồi …chết đi. Hiện hữu để chết, sự kết thúc là hư vô. Cần nhìn thẳng vào sự thật đó để lựa chọn phương thức sống cho mình, khi thần chết còn chưa đến! 

7) Sự cô độc và bí hiểm. Tình trạng phổ biến đáng buồn hiện nay là người ta muốn sống cô độc, không muốn và không thể thông cảm với người khác. Con người trở nên nghi kỵ nhau. Sự hiểu nhau hóa ra chỉ ở cái vẻ bên ngoài; mọi thứ dường như trở nên bí hiểm, không mở ra cho sự liên kết và thấu hiểu nhau trong một thế giới đầy cạm bẩy. 

8)Sự hư vô. Sartre, đại diện tiêu biểu cho nhánh hiện sinh vô thần, cho rằng con người là một thực thể của hư vô. Chết là điểm kết thúc của sự hiện hữu, là sự giải thoát, là nỗi đau cuối cùng, là mục đích cuối cùng. Chúng ta tồn tại để hướng tới cái trống không vĩnh hằng ấy. . Trong hiện sinh tôn giáo cũng có những suy tư về kiếp người trong sự lo âu vô định. “Nổi thất vọng theo đuổi con người cho tới lúc hắn xuống mồ và có lẽ nó đả có mặt trong hầu hết những ngôn ngữ trên đời. Nó vang lên át cả mọi tiếng nói của con người,là lời nói cuối cùng của Chúa Kitô trên thập giá:”Lạy Cha, sao Cha bỏ con?”.

 9) Sự cải hóa cá nhân. Kierkegaard đã nói đến Cá nhân theo nghĩa viết hoa. Theo nghĩa tôn giáo thì “dám trở thành cá nhân” mang ý nghĩa cao cả nhất của con người. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ đề cập đến tồn tại - nếm trải, mà còn nhấn mạnh cá nhân như một dự phóng, một chủ thể hướng lai. Con người không thể “sống cho xong một kiếp người”,”sống cho qua ngày”, mà phải ý thức về cuộc sống có ích, không chỉ “là” (sum), mà còn “vươn cao lên” (sursum). G. Marcel khẳng định “con người không bao giời muốn bị vo viên”. 

10) Vấn đề nhập thế, dấn thân. Con người là một bản thể ý thức về tự do và khát vọng tự do. Heidegger cho rằng con người là một “thực thể ở đời”, một “thực thể biết dấn thân”để chứng tỏ mình là chính mình. Lựa chọn phương thức sống ở đời - đó là biểu hiện của phẩm chất Người. Ngay cả người có đạo, lấy việc thoát khỏi thế gian làm cứu cánh, thì lựa chọn đích thực vẫn là về với thế gian, vì ý nghĩa cuộc sống chỉ được thử thách ở đây thôi. 

11) Quan hệ giữa tôi và tha nhân, người ta. Giữa hiện sinh hữu thần và hiện sinh vô thần có cách đánh giá khác nhau về quan hệ giữa người với người. 


12) Đời sống dám liều. “Dám liều” trước hết là thể hiện khát vọng sống mãnh liệt, không chùn bước trước những thách thức của hoàn cẢnh, sẵn sàng đương đầu với mọi hiểm nguy. Trong cuộc sống luôn luôn có những lý tưởng mời gọi con người vươn lên, dù sức lực và trí tuệ chưa đạt được sự hoàn thiện. Biết chầp nhận rủi ro, thất bại, nuôi hy vọng mới - đó là sự phục sinh của con người như một chủ thể tự vượt lên. “Dám liều” - một hình thức thể hiện mạnh mẽ cá tính con người như thực thể “là mình”, “tự tạo”, “tự do”. Tuy nhiên đôi khi “dám liều” chỉ là một cuộc chơi không mục đích. 

Những điều vừa nêu đã giải thích sự Ảnh hưởng có tính hai mặt của chủ nghĩa hịện sinh đến đời sống xã hội, cũng như mỗi cá nhân. 

Chủ nghĩa hiện sinh từng được truyền bá rộng rãi ở miền Nam trước 1975 qua các công trình gốc của nó hoặc dười hình thức văn chương, kịch nghệ, các ấn phẩm văn hóa giải trí khác. Ngày nay chủ nghĩa hiện sinh không còn tồn tại như một triết thuyết đương đại nữa, song chất “hiện sinh” vẫn được nhận diện đây đó trong các ngõ ngách của đời sống chúng ta. 

Triết học+
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?