Triết học là gì và đối tượng nghiên cứu của triết học là gì?

Triết học và đối t­ượng nghiên cứu của triết học

Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.

Theo ng­ười Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con ng­ời đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó không phải là sự miêu tả, mà là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng. 

Ở ph­ương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Philôsôphia”, nghĩa là "yêu mến sự thông thái". Triết học đ­ợc xem là hình thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. 

Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con ng­ời về thế giới; về vị trí, vai trò của con ng­ời trong thế giới ấy.

Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà đ­ợc xem là "khoa học của mọi khoa học".

Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học, từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học" của một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.

Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên và xác định đối t­ợng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trư­ờng duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ng­ời đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t­ư duy".

Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới, triết học xem xét thế giới nh­ một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nh­ưng điểm chung của chúng là đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con ng­ời nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.

 Như­ vậy, với tư­ cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất, triết học không thể ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài nư­ời. Triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:

Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,  thành lý luận và trên cơ sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.

Thứ hai, con ng­ời đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu t­ượng hóa để có thể rút ra đ­ợc cái chung từ vô số các sự vật và hiện t­ợng riêng lẻ, xây dựng nên các học thuyết, lý luận.

Điều đó khẳng định rằng, với t­ cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quy định.



Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?