Triết học duy lý của Réne Descartes

Chủ nghĩa duy lý hiện đại bắt đầu với Réne Descartes, vứt bỏ hệ thống thế giá và thẩm quyền của triết học kinh viện, Descartes bắt đầu với sự hoài nghi mọi cái, kể cả những gì ông trải nghiệm vì ông cho rằng các giác quan thường đánh lừa ông. Nhưng có một cái ông không thể hoài nghi, đó là chính sự hoài nghi. Ðây là cốt lõi được ông trình bày trong câu nói danh tiếng của mình: Cogito, ergo sum: Je pense dons je suis: Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu. Ông nghiền ngẫm về bản chất của trải nghiệm tri giác, cũng như những khám phá khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes (và cả John Locke) đã đi đến quan điểm rằng chúng ta trực tiếp ý thức được ý nghĩ, chứ không phải sự vật. Quan điểm này làm nảy sinh ba vấn đề.

1. Có phải các ý nghĩ là bản sao thực thụ của những sự vật, sự việc mà chúng đại diện? Cảm giác không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các vật thể và ý thức của ta, mà nó là quá trình sinh lý bao hàm sự đại diện (thí dụ như, một hình ảnh trên võng mạc). Locke nghĩ rằng một "tính chất phụ", như cảm giác thấy màu xanh lục, không thể nào giống sự sắp xếp các phân tử vật chất sinh ra cảm giác đó, dù là ông cũng nghĩ "những tính chất chính" như hình dạng, kích thước, con số, thực sự có trong các sự vật.

2. Ta vẫn chưa rõ làm thế nào những vật thể tự nhiên như bàn, ghế hoặc ngay cả những quá trình sinh lý trong não bộ có thể sản sinh ra những thứ thuộc về tinh thần như ý nghĩ. Điều này là một trong những vướng mắc của một vấn đề triết học nổi tiếng, vấn đề tinh thần-cơ thể.

3. Nếu tất cả những gì chúng ta ý thức được chỉ là ý nghĩ, vậy làm sao ta có thể biết được có thứ gì khác tồn tại ngoài ý nghĩ ra?

 Descartes đã nỗ lực giải quyết vấn đề cuối cùng bằng lý luận. Ông chấm dứt những quan niểm của các triết gia trước đó, ông không tin rằng những quan niệm về triết học của các triết gia trước đây là những gia bảo. Ông phá đổ những gì của nền triết học cổ đại, ông đã xây dựng cái mới trên một cái nền mới hoàn toàn. Ông mở đầu cuộc cách mạng triết học mới và Immanuel Kant là người kết thúc tư tưởng triết học của ông. Kant đã đi theo "Chủ nghĩa lý tưởng", chủ nghĩa ấy là một học thuyết cho rằng hiện thực là hoàn toàn giới hạn bởi đầu óc của chúng ta. Mặc dù nó phụ thuộc vào quan điểm của Réne Descartes rằng những gì có trong đầu chúng ta được biết trước những điều được biết thông qua các giác quan.

Descartes đã bắt đầu bằng một nguyên lý mà ông nghĩ là không thể bắt bẻ hiệu quả được: Tôi "biết suy nghĩ", do đó tôi "tồn tại". Từ tính chất chắc chắn do sự hiện hữu của hữu thể tư duy, ông tiến hành xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về kiến thức, ông đã lần bước tới sự hiện hữu của Thượng đế. Ông biện hộ cho sự hiện hữu ấy bằng cách đưa ra bằng chứng dựa trên luận cứ mang tính bản thể luận của Anselm và bằng chứng dựa trên nguyên nhân đệ nhất, cái chắc chắn tạo ra trong người tư duy ý tưởng về Thượng đế. Như thế, trong khi đạt tới sự hiện hữu của Thượng đế, Descartes cũng với tới thực tại của thế giới vật lý thông qua Thượng đế. Do đó, thế giới ngoại tại mà chúng ta đang tri giác phải hiện hữu. Như thế, Descartes rơi trở lại sự chấp nhận là thật những cái được chúng ta tri giác một cách rõ rệt và riêng biệt. Và ông nghiên cứu thế giới vật chất bằng cách tri giác các nối kết của nó. Ông nhìn thế giới vật chất như có tính máy móc chủ nghĩa, hoàn toàn cách ly với tâm trí, cái độc nhất nối kết giữa hai hữu thể bằng sự can thiệp của Thượng đế. Tới ngang đây, quan điểm của Descartes gần như hoàn toàn mang tính nhị nguyên luận.

Triết học Descartes đánh dấu một bước ngoặc của tư tưởng con người đối với vũ trụ, đối với trời đất và chính mình. Descartes đã thay đổi quan điểm triết lý về thiên nhiên bằng triết lý về tinh thần. Những gì về thiên nhiên, về hoạt động khoa học như toán học, vậy lý là phạm trù của khoa học, chỉ có tinh thần là thuộc về triết học mà thôi . Các triết gia xưa đã đưa toán học, vật lý học và tinh thần là phạm trù của triết học nhưng đến thời của Descartes thì triết học chỉ là tinh thần chứ không có toán học và vật lý học nữa và nó không còn là phạm trù của triết học. Descar đã gặt bỏ những điều trước đây và bắt đầu hình thành triết học con người hay triết học tinh thần. “Tôi tư duy tức tôi tồn tại”, quan điểm của ông đã thu hút được những triết gia như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz và Christian Wolff.

Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy cơ do ông phát minh ra và triết học dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy lý. Từ thời triết học cổ đại Hy Lạp cho đến Platon, Aristote cũng lấy thế giới là nền tảng của sự nghiên cứu nhưng đến thời của Descartes ông lại lấy Cogito làm nền tảng cho sự nghiên cứu của mình. Cogito là hành vi suy tưởng của con người làm nền tảng bởi vì con người là sự hợp tác của thể xác và tinh thần. Ở đây ông chỉ đề cập đến tinh thần mà không đề cập đến thể xác: “Tôi là một yếu tố tinh thần thuần tuý , tôi hiện hữu không cần có nơi cư ngụ sinh hoạt và tôi cũng không cần phải nhập vào thể xác nào”. Ông xem thể xác như là một cái máy và thể xác cũng chỉ là vật lý thôi còn tinh thần dù không nương tựa vào đâu cũng hoạt động được: “Không có thân xác thì con người cũng là mình không hơn không kém”. Tuy nhiên quan niệm của ông sau này bị Hobber phê phán. “Cogito này cũng là biểu hiện sai lầm của Descartes là đã chứng minh sự tồn tại của con người bằng tư duy. Tư duy tồn tại hoàn toàn tách biệt với chủ thể.” Phải chăng ông quá đề cập đến tư duy mà quên đi phần vật chất (tức thể xác) vì con người được tồn tại do sự hiện hữu của thân và tâm nếu như không có thân thì tư duy chỉ là một cái gì đó lơ lững không định hướng.

Tuy vậy, chúng ta không thể hiểu câu nói của Descartes về “Tôi tư duy” là tôn vinh bản ngã, coi bản ngã là có thật. Thật sự trong trường hợp này “tôi” (ngã) không giống như thuyết vô ngã mà Đức Phật đã nói mà ông chỉ ngụ ý là sự tư duy là thật. Ông từng viết: “Trước đây tôi đã tưởng tôi là gì? Tự nhiên tôi đã tưởng tôi là một con người. Nhưng người là gì?...Tôi tự coi mình như có bộ mặt, những bàn tay, những cánh tay và tất cả bộ máy bằng xương bằng thịt, và tôi gọi cái máy này bằng thân thể.” Tuy nhiên Descartes là xây dựng hệ tư tưởng của ông dựa trên sự nghi ngờ: tất cả đều phải được xem xét lại, vì các giác quan của chúng ta đều có thể bị nhầm lẫn. Xét cho cùng, trong giấc mơ chúng ta thấy các vật cũng thật như khi chúng ta thức. Nhưng, theo Descartes, ít nhất có một điều không thể bị xem xét lại, đó là bản thân việc mình đang nghi ngờ. Khi nghi ngờ, cần phải tư duy, bởi vì tư duy, nên phải tồn tại với tư cách là người tư duy. Từ đó có câu nói nổi tiếng: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”, mở đầu cho tác phẩm Luận về phương pháp xuất bản năm 1636 và được dùng làm dẫn nhập cho các tiểu luận của ông về Khúc xạ học, Sao băng và Hình học . Trong Luận về phương pháp, Descartes đã trình bày các phương pháp “để dẫn dắt lý trí một cách đúng đắn và để tìm kiếm chân lý trong khoa học”, nói cách khác là để xóa bỏ khoa học cũ và xây dựng lại khoa học dựa trên các căn cứ duy lý.

Từ lối tư duy độc lập chỉ thiên về lý trí, chỉ tin vào lý trí. Nghiên cứu triết học cơ bản của Descartes đòi hỏi phải có phương pháp phân tích. Và để có thể phân tích ra từng chi tiết của vấn đề, điều căn bản trước tiên mà một nhà khoa học chân chính phải có chính là sự hoài nghi. Sự hoài nghi là một nguồn lực thúc đẩy con người đi tìm kiếm kiến thức, tìm kiếm những hiểu biết mới, đi dần tới chân lý đích thực. Nếu không biết hoài nghi, tư tưởng con người sẽ đứng yên tại chỗ, điều này sẽ dẫn tới tâm lý thỏa mãn, nguyên nhân của tính bảo thủ và những ngu dốt sẽ ngày một phát sinh. Và Descartes chính là nhà triết học lấy nhận thức và lý trí hoài nghi sự vật để tìm hiểu sự vật, từ đó coi tư duy là tất cả giá trị của con người." Trong các tác phẩm của ông đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Muốn trở thành người thông thái, thì ít nhất một lần trong đời, ta phải biết hoài nghi về tất cả”, “Tất cả những gì còn một chút hoài nghi đều bị coi là tuyệt đối sai lầm”. Ông chỉ chấp nhận những gì khi nó không còn có nghi vấn. Chính những hoài nghi đã trở thành phương tiện để đạt tới chân lý. Ông xem triết học là khoa học của tư duy, có vai trò rất lớn trong đời sống con người. Ông phê phán chủ nghĩa kinh viện đã tạo ra một tri thức ít ỏi. Descartes khẳng định về bản chất hệ thống triết học của ông là “khác với các nhà thần học; tôi với tư cách là nhà triết học đã trình bày một triết thuyết không hề tuân thủ một tôn giáo nào...Và do vậy có thể được tiếp nhận khắp nơi...” Thật vậy, vì triết học của ông không tuân thủ một tôn giáo nào nên nó thoát ra tất cả những giáo điều mà các tôn giáo đã áp đặt. Chính vì nó thoát ra khỏi tôn giáo cho nên được nhân loại chấp nhận một cách khách quan.

“Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” – câu nói bất hủ của nhà triết học người Pháp René Dercaster và cũng là nguyên lý chính trong học thuyết của ông - triết học duy lý với tinh thần hoài nghi – một nguyên lý triết học đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong lối tư duy lý tính của người phương Tây, thậm chí trở thành một phong cách sống của con người hiện đại. Nguyễn Tường Bách đã nhận định: “Câu nói xem ra đơn giản này được hiểu nhiều cách khác nhau. Nhưng cách đơn giản nhất hẳn là, nếu không có tư duy con người không thể được xem là “hiện hữu”, con người sẽ đồng như gỗ đá. Thực thế, tư duy làm nên tính cá thể của mỗi một con người. Trong toàn bộ loài người thì tư duy là nền tảng của mọi tri thức, của khoa học và triết học. Ngôn ngữ là sự phát biểu của tư duy. Có thứ ngôn ngữ sắc gọn như toán học, phức hợp như triết học nhưng tất cả ngôn ngữ đều dựa trên tư duy. Tư duy là nền tảng của nền văn minh nhân loại”. Bằng tư duy lý trí, con người có thể đạt đến tất cả những sự hiểu biết mà các giác quan không thể đem đến. Và chỉ có tri thức lý tính mới là chính là chân lý tuyệt đối và đáng tin cậy. Từ đó có thể thấy vấn đề cơ bản của triết học Descartes là sự đề cao nhận thức lý tính đối lập với nhận thức cảm tính, là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy.

Điều đó có thể được giải thích bằng lập luận rằng : Bởi nếu bạn không hiện hữu thì làm gì có cái tư tưởng đang nghi ngờ tất cả mọi sự thế này. Bạn đang nghi ngờ tất cả, nên nghi ngờ luôn các định luật logic, nên tất cả những cái gì mà bạn biết hay suy ra được đều không rõ ràng và chắc chắn. Nếu bạn chưa nghiệm ra được, bạn cần nhắm mắt lại lần nữa, hay nhiều lần nữa, đặt mình trong tâm trạng nghi vấn tất cả, bạn sẽ có thể tập dần dần ý thức chủ quan của mình, và đi đến một cảm nghiệm không thể chối cãi được về sự hiện hữu của chính mình, như một chủ thể, chứ không phải như một đối tượng khách quan.

Trong diễn biến đó người ta không nên để cho mình thất vọng khi chủ thể tư duy được đặt làm trọng tâm một cách chủ ý đầy khéo léo. Nói cách khác, hình thức những suy niệm thực ra không được xây dựng trên tính chất duy ngã nông nổi và ích kỷ, nhưng là trình bày về phương pháp của Descartes. Nói cách khác, diễn tiến sự nhận thức – nơi Descartes là một tác động của tinh thần – cần phải mở ra trong những bước đi suy lý có trật tự không chỉ đối với chủ thể tư duy mà còn khả thi đối với độc giả nữa, là người cũng có thể tham dự vào hành động nhận thức.

Bởi vì, nếu tất cả mọi sự đều có thể bị nghi ngờ, thì ít ra một điều chắc chắn đối với tôi là tôi đang nghi ngờ. Để có được hoài nghi này, thì sự tách biệt cần thiết khỏi tất cả mọi tình huống ngoại cảnh phải được dựa trên một điều kiện rõ ràng mà người ta thường hay bỏ qua không nhìn thấy: Lý do tuyệt đối của tri thức mà Descartes cố công gầy dựng nên cần tới một vị trí đặc biệt của một chủ thể tự do. Bởi vì, chỉ khi đặt nền tảng trong sự tự do thì khả năng con người mới có thể tách mình ra khỏi tất cả những sự vật ngoại giới mà thôi. Qua đó, Descartes muốn nói rằng bây giờ ông đã tìm ra được một con đường dẫn tới một sự nhận thức rõ ràng chính xác cuối cùng, hoàn toàn bất khả đổi thay: Đó chính là sự hiện hữu cá thể của tôi như một hữu thể tinh thần.

Sưu tầm
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?