Triết học của các nhà khai sáng

Một trong những đặc trưng cơ bản của phong trào Khai sáng Pháp là tính đa dạng về nội dung và hình thức, hướng đến mục tiêu lớn thống nhất – cải tổ đời sống xã hội theo tinh thần nhân văn, xác lập “nhà nước hợp lý tính” với những tiêu chí cụ thể qua từng phương án, từng đại biểu của nó. Về mặt thế giới quan sự tồn tại cả khuynh hướng thần luận tự nhiên lẫn khuynh hướng vô thần cho thấy sự phát triển tất yếu của tư tưởng khai sáng, phản ánh những biến cố trong hoạt động thực tiễn tại Pháp ở đêm trước của cách mạng tư sản.

Triết học của La Mettrie là sự kết hợp chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa vô thần và lý tưởng khai sáng. Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề buôn bán ở miền Nam nước Pháp. Vào thời niên thiếu La Mettrie tham gia các sinh hoạt tôn giáo, nhưng từ 15 tuổi đã bắt đầu hoài nghi vào một số tín điều Kitô giáo, từ chối làm linh mục để trở thành  bác sỹ. Công trình đầu tiên của La Mettrie – Lịch sử tự nhiên của linh hồn, hay Luận về linh hồn (1745) được trình bày từ lập trường duy vật, gây nên phản ứng gay gắt từ phía nhà thờ và nhà nước phong kiến. Để tránh sự truy bắt, ông lánh sang Hà Lan. Tại đây ông công bố một tác phẩm điển hình của chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình – Con người – cỗ máy (1747), vẫn theo khuynh hướng chống duy tâm và tôn giáo, phủ nhận thuyết Tạo hóa. Vì lý do đó một lần nữa La Mettrie rời Hà Lan, tìm kiếm sự hậu thuẫn từ vua Frederich đệ nhị của Đức (1748). Trong ba năm sống tại Đức La Mettrie trở thành bác sỹ hoàng gia và thành viên Viện hàn lâm khoa học Berlin, tham gia tích cực vào việc truyền bá tư tưởng khai sáng, viết hàng loạt công trình có giá trị  như Con người – thực vật, Chống Séneca, hay về hạnh phúc, Hệ thống Epicure…Ông mất ở tuổi 42, khi tài năng đang độ chín muồi, sau cơn đau dạ dày cấp tính do thử nghiệm một loại thuốc mới.

Trong các tác phẩm của mình La Mettrie nêu ra nhiều tư tưởng nền tảng, làm tiền đề lý luận trực tiếp cho các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như Diderot, Holbach, Helvestius. Bên cạnh đó hàng loạt luận điểm của La Mettrie tiếp tục được điều chỉnh hoặc làm sâu sắc thêm trong điều kiện mới, có cả những luận điểm mà La Mettrie chưa từng biết đến

Triết học tự nhiên của La Mettrie tập trung phân tích các vấn đề truyền thống của chủ nghĩa duy vật, bắt đầu từ thời cổ đại, đồng thời dựa vào “vật lý học” của Descartes như bậc tiền bối của mình. La Mettrie cố gắng vượt qua thói quen ý thức của thời đại mình để phác thảo những nội dung chính của nhánh vô thần trong chủ nghĩa duy vật Pháp. Vấn đề là ở chỗ, vào thời La Mettrie do thiếu các luận chứng khoa học cho việc giải thích tự nhiên từ chính tự nhiên, nên phần lớn các nhà tư tưởng dựa trên  quan điểm tự nhiên – mục đích luận hoặc tự nhiên – thần luận, qua đó chứng minh vai trò của Thượng đế như lý tính tối cao, chi phối các quá trình thế giới. Quan điểm tự nhiên – mục đích luận và tự nhiên – thần luận cho rằng con người và vũ trụ đều mang tính hướng đích thống nhất, rằng các bộ phận hoàn thiện của cơ thể sống chứng minh vai trò Tạo hóa của lý trí tối thượng, hay lý trí Thượng đế. La Mettrie phê phán cả hai phương án trên, thay bằng sự giải thích tự nhiên – tất định luận, chứng minh nguyên nhân tự nhiên của sự hình thành các cơ quan trong cơ thể người và vật. Sự thiếu hiểu biết, theo La Mettrie, buộc con người tin vào Thượng đế. Tự nhiên, chứ không phải Thượng đế, là nguyên nhân của mọi tồn tại, là người mẹ chung của muôn loài. Do đó cần hiểu tự nhiên như Đấng sáng tạo kỳ diệu, chứ không phải là người thợ có đầu óc, như cách suy nghĩ đơn giản dưới ảnh hưởng của cơ học thời ấy. Tính thống nhất vật chất của tự nhiên được La Mettrie thể hiện qua tuyên bố về sự tương đồng giữa con người với giới động vật và thực vật. Trong vũ trụ chỉ tồn tại một thực thể với các biến thái khác nhau, trong đó con người là biểu hiện hoàn thiện nhất của nó. Theo La Mettrie, ngoài quảng tính, mọi vật chất đều có thuộc tính vận động, cũng như sự thống nhất giữa vật chất và hình thức. Vật chất mà không vận động chỉ là vật chất trừu tượng và chết cứng. Mọi thực thể đều quy về thực thể vật chất. Trong Lịch sử tự nhiên của linh hồn La Mettrie viết: "Vận động, hay động lực, là thuộc tính thứ hai (sau quảng tính) của vật chất (hiểu theo nghĩa thực thể của Spinoza). Vật chất chứa đựng động lực sinh động của nó, cái trở thành nguyên nhân trực tiếp của tất cả các quy luật vật động”( La Mettrie, Sđd, M. 1976, tr. 73). Xét về bản chất, vật chất không chỉ có năng lực vận động, mà còn có năng lực cảm tính tiềm ẩn. Dưới ảnh hưởng của thuyết vật giác, hay vật cảm (Hylosensism) La Mettrie tuyên bố năng lực cảm giác cũng là một trong những thuộc tính của vật chất. Tuy nhiên ông tỏ ra thận trọng với tuyên bố này khi lưu ý, năng lực cảm giác chỉ phổ biến ở các cơ thể sống, mà cụ thể là động vật. 


La Mettrie là nhà duy vật vô thần duy nhất sử dụng khái niệm “thực thể” trong triết học của mình. Các nhà duy vật khác như Diderot, Holbach ít khi sử dụng khái niệm thực thể, mặc dù xét thực chất vấn đề tính thực thể được đưa lên hàng đầu, nhằm luận chứng cho quan niệm duy vật về tự nhiên, chẳng hạn “tự nhiên là nguyên nhân của tất cả; nó tồn tại tự thân; nó sẽ tồn tại và vận động vĩnh viễn…” (P.Holbach, Tác phẩm gồm 2 tập; t.1, M, 1963, tr. 502).

Nhận thức luận là một trong những vấn đề trọng tâm của triết học cận đại, trong đó có triết học La Mettrie. Cơ sở của nhận thức luận trong chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII, bắt đầu từ La Mettrie, là luận điểm của chủ nghĩa kinh nghiệm – duy cảm duy vật Anh, điển hình là duy cảm luận của Locke, mà theo đó mọi tri thức xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính và mọi tư tưởng đều bắt nguồn từ cảm giác. Tuyên bố ngay ở trang đầu tiên của Lịch sử tự nhiên của linh hồn rằng “không có người dẫn dắt đáng tin cậy nào hơn các cảm giác của chúng ta”(La Mettrie, Sđd, 1976, tr. 65), La Mettrie khép lại quan điểm đó ở những dòng cuối: "Không có cảm giác không có ý niệm. Càng ít cảm giác càng ít ý niệm…" (La Mettrie, Sđd, 1976, tr. 153). Trong nhận thức luận của mình, La Mettrie nhấn mạnh 3 yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau: cảm tính, kinh nghiệm, lý tính. Nhận thức là một quá trình bắt đầu từ tri giác cảm tính, tiếp đó là nghiên cứu thực nghiệm,  sau cùng là sự khái quát hóa các chất liệu đã được sàng lọc, song vẫn chịu tác động của kiểm chứng thực nghiệm. Tuy đề cao vai trò của nhận thức cảm tính, La Mettrie vẫn lưu ý rằng khái quát hóa và trừu tượng hóa luôn luôn cần thiết trong quá trình nhận thức nhằm đạt đến tri thức phổ biến và sâu sắc hơn về sự vật. Lý tính là người dẫn đường đáng tin cậy của nhận thức sau cảm tính và kinh  nghiệm. La Mettrie xem sự thống nhất cảm tính, kinh nghiệm và lý tính là nguyên tắc cơ bản của nhận thức chân lý. Chẳng hạn, nói rằng giới tự nhiên là “nguyên nhân tự thân” không chỉ căn cứ vào quan sát, mà cả những khái quát lý luận từ nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu; nói rằng vật chất là thực thể duy nhất cũng xuất phát từ nguyên tắc thống nhất cảm tính, kinh nghiệm và lý tính để đưa ra nhận định đúng đắn về tính duy nhất ấy. 

Là đại biểu của duy cảm luận La Mettrie cho rằng thế giới khách quan được phản ánh trong “tấm màn trí não”. Ông phân biệt nhận thức về lượng, tức kết quả phản ánh do tác động của sự vật gây ra những cảm giác trực tiếp đầu tiên (thị giác), và nhận thức tính quy định về chất, nghĩa là thâm nhập sâu hơn vào thế giới các sự vật nhờ tìm hiểu mối liên hệ giữa chúng với nhau, sự phát sinh, phát triển của chúng.     

Lý luận về con người của La Mettrie tập trung làm sáng tỏ nguồn gốc, bản chất của con người và nhận thức. Lý luận đó dựa trên học thuyết duy vật về linh hồn và về tính duy nhất của thực thể. Kế thừa chủ nghĩa duy vật của Locke, La Mettrie phản bác quan điểm về linh hồn như thực thể khác với thân xác, xem linh hồn như tổng thể các chức năng tâm lý cố hữu ở con người, qua đó phủ nhận quan điểm về năng lực cảm giác và tư duy như những năng lực được đưa từ bên ngoài vào hệ thống vật chất do ân sủng của Thượng đế. Trong Lịch sử tự nhiên về linh hồn hay Luận về linh hồn La Mettrie nêu ra hai quan điểm đối lập nhau: “Tất cả các hệ thống triết học xem xét linh hồn con người, - ông viết,- có thể quy về hai: hệ thống thứ nhất có nguồn gốc từ xa xưa, là hệ thống của chủ nghĩa duy vật, còn hệ thống thứ hai – hệ thống của  chủ nghĩa duy linh” (La Mettrie, Tác phẩm, Mátxcơva, 1976, tr. 193). 

Trong học thuyết về tiến hóa sinh học La Mettrie chỉ ra tính thống nhất của thế giới hữu cơ, từ sinh thể đơn giản đến con người, nhấn mạnh con người như kết quả cao nhất của tiến hóa. Nếu Descartes so sánh động vật với cỗ máy không có năng lực tâm lý, thì La Mettrie cho rằng ở vật lẫn người đều có năng lực cảm giác như nhau. Năng lực cảm giác của động vật được minh chứng bởi điểm chung giữa nó với con người ở một số biểu hiện trạng thái xúc cảm, ở sự tương đồng của cơ thể về kết cấu và cơ chế vận hành. La Mettrie lưu ý: "Hoàn toàn có thể cho rằng dù kém hoàn thiện hơn so với con người, song loài vật xuất hiện trên trái đất trước con người”, nên “sẽ không lạ lùng nếu xuất hiện tư tưởng giải thích nguồn gốc của loài người từ loài vật” (La Mettrie, Sđd, tr. 400, 403). Tuy nhiên, khi triển khai tư tưởng này La Mettrie lại rơi vào vòng luẩn quẩn với những tưởng tượng về vai trò của sự phối giống, pha tạp, kể cả sự phối giống giữa con người với một số loài vật để tạo nên những tộc người khác nhau!    

Để giải đáp câu hỏi về nguồn gốc sự sống La Mettrie một mặt dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật, xuất phát từ cổ đại, đặc biệt là chủ nghĩa Epicure, mặt khác, khái quát lý luận các thành quả của khoa học tự nhiên đương đại. La Mettrie đồng ý với giả thiết cho rằng sự sống bắt đầu từ những hạt giống, những phôi thai rơi vào đại dương cổ xưa, vốn bao phủ khắp hành tinh trước khi bị thu hẹp dần theo quá trình kiến tạo địa chất. Con người và cây cỏ là hai nấc thang ở hai đầu của cây thang sự sống, ví như hai màu trắng – đen đối lập nhau, cùng động vật, từ côn trùng đến muôn thú, là khâu trung gian, liên kết với cả hai. Trong cách lý giải nguồn gốc con người của La Mettrie có những yếu tố tích cực, hợp lý lẫn những suy đoán ấu trĩ, mơ hồ. Theo quan điểm tiến hóa của thế kỷ XVII – XVIII, La Mettrie xem con người như  một dạng sinh vật, hình thành nhờ sự pha trộn giữa các loài vật với nhau. Ông xếp chung con người và các giống vượn người vào nhóm linh trưởng. Nhấn mạnh mối liên hệ di truyền giữa con người và vượn người, La Mettrie lại cho rằng vượn người xuất phát từ người, là con người đã bị thoái hóa, biến dạng! Điểm tích cực trong lý luận về sự hình thành con người là ở chỗ ông không xem các yếu tố sinh học là nguồn gốc duy nhất của con người. Dù không chỉ ra một cách rõ ràng ranh giới giữa ý thức con người và tâm lý động vật, song La Mettrie nhấn mạnh ưu thế về chất của linh hồn con người trước linh hồn loài vật. “Con khỉ sáng dạ nhất cũng không thể so sánh với trí khôn của con người”. 

Cũng như Hobbes và các nhà duy vật Pháp khác như Diderot, Holbach, La Mettrie chú trọng đến các yếu tố văn hóa – xã hội trong quá trình hình thành con người, đề cao vai trò của giáo dục trong việc phát triển, hoàn thiện nhân cách con người. Không có giáo dục thì ngay cả bộ óc được tổ chức tốt nhất cũng mất đi giá trị của nó. Con người chỉ có thể trở thành người giữa mọi người. Ngược lại, nếu tách biệt khỏi cộng đồng người, con người sẽ mất dần các “tố chất người”. Bằng các chất liệu lịch sử La Mettrie chứng minh rằng đứa trẻ tách khỏi cộng đồng người sẽ không còn là người nữa, mà trở thành loài thú, bắt chước thú vật từ phát âm đến dáng đi (La Mettrie, tác phẩm, Mátxcơva, 1976, tr. 147, bản dịch sang tiếng Nga). Phương tiện cần thiết trong quá trình giao tiếp, cũng đồng thời là minh chứng cho khả năng phát triển trí tuệ của con người, là ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ, “viên kim cương trí tuệ” của chúng ta được gọt dũa, trau chuốt, trở nên tinh tế và có ý nghĩa trong đời sống cộng đồng. Không tuyệt đối hóa vai trò của ngôn ngữ như Hobbes, người cho rằng không có ngôn ngữ sẽ không có xã hội, nhà nước, La Mettrie vẫn khẳng định rằng, trước khi sáng tạo ra ngôn ngữ và hệ thống ký hiệu con người chỉ là một loài vật đặc biệt. Tổ chức đời sông xã hội, giáo dục và sáng tạo ra ngôn ngữ – những  nhân tố ấy làm cho con người trở thành chúa tể của muôn loài. 

La Mettrie vận dụng các nguyên lý cơ học vào việc giải thích cơ thể người, với tác phẩm điển hình  Con người – cỗ máy (1747). Khác với con vật, con người là một cỗ máy đặc biệt, có năng lực cảm giác, tư duy, biết phân biệt thiện và ác, như màu xanh, màu vàng, và được sinh ra với một bộ óc hoàn thiện hơn nhiều so với loài vật, cũng là một cỗ máy như nó. Hơn thế nữa, nếu như thế giới, giới tự nhiên vận động tự thân, thì con người là một cỗ máy tự khởi động, vận động không ngừng và hết sức tinh tế. Cái cỗ máy ấy truyền dinh dưỡng vào cơ thể và sinh ra năng lượng cho hoạt động của mình qua quá trình trao đổi chất phức tạp với môi trường. Cơ thể người  ví như một chiếc đồng hồ, nhưng đó là đồng hồ tự động, tự điều chỉnh, có thể tiếp tục vận hành ngay cả sau khi bị hỏng hóc ở bộ phận bánh xe, lò xo (nghĩa là trạng thái bệnh lý). Cách giải thích như thế về con người nhằm luận chứng cho quan niệm về con người như  thực thể vật chất, thống nhất với tự nhiên, đồng thời tỏ ra ưu thế trước loài vật bởi khả năng trí tuệ của mình. 

Quan điểm đạo đức – chính trị của La Mettrie thể hiện những chuyển biến tư tưởng quan trọng của ông, từ một người phục vụ trong quân đội, làm bác sỹ hoàng gia, đến lập trường của “tầng lớp thứ ba”. Chỉ trong 4 năm (1747 – 1751) đã ghi nhận được 3 thời kỳ chuyển biến tư tưởng của ông. Thời kỳ thứ nhất – thuyết bẩm sinh đạo đức, theo đó con người được phú bẩm bởi “ luật tự nhiên”, biết phân biệt thiện – ác, biết ứng xử phù hợp với cái phú bẩm ấy, nghĩa là biết điều gì nên làm, điều gì nên tránh, biết bày tỏ sự đồng cảm và lòng biết ơn…Cội nguồn của “luật tự nhiên” không phải ở “tình cảm tôn giáo”, mà ở thế giới loài vật, nơi mà ngay cả loài thú hung dữ nhất vẫn có lòng trắc ẩn. Các yếu tố của thuyết bẩm sinh được La Mettrie trình bày trong tác phẩm “Con người – cỗ máy”. Thời kỳ thứ hai – thuyết duy giáo dục, được La Mettrie trình bày tập trung trong “Chống Séneca”.  Dưới ảnh hưởng của Locke, La Mettrie từ bỏ thuyết bẩm sinh, hướng đến cách tiếp cận "tabula rasa" của duy cảm luận duy vật, chỉ giữ lại từ thuyết bẩm sinh những nội dung liên quan đến tố chất tự nhiên, năng khiếu cá nhân của mỗi người. Trong thời kỳ này La Mettrie đem đối lập cái thiện với “hạnh phúc dơ bẩn”,  xem cái thiện như  kết quả của một nền giáo dục xã hội đối với cá nhân, nhằm loại trừ  tính hung dữ tự nhiên và thói ích kỷ, hình ảnh lối sống đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, thậm chí trong những trường hợp cần thiết biết hy sinh cái cá nhân vì người khác và vì toàn thể xã hội. Tuy nhiên tư tưởng chống thần quyền và tín điều tôn giáo đã đưa La Mettrie đến một thái cực khác trong quan niệm về hạnh phúc, gắn liền với chủ nghĩa hạnh phúc dung tục.

Triết học+ 

Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?