Triết học Francis Bacon
Là nhà triết học duy vật kiệt xuất
của nước Anh. Mác đánh giá Bacơn là “ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh
và của khoa học thực nghiệm hiện đại”.
Các tác phẩm chính:
-
Khái lược về đạo đức và chính trị
-
Đại phục hồi các khoa học
-
Công cụ mới
-
Lịch sử sự sống và cái chết
Bacơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật
chất. Khoa học không biết một cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự
nhiên. Ông cho rằng con người cần phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên.
Điều đó có thực hiện được không hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con
người. Bacơn cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức. Do đó cần có
một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu nhằm biến tự nhiên
thành “giang sơn” của con người.
Bacơn phê phán gay gắt chủ nghĩa
kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ dựa vào những lập luận tuỳ tiện không có
nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì cho con người. Theo Bacơn, triết học phải
giúp con người trở nên mạnh hơn. Nhiệm vụ của triết học là nhận thức giới tự
nhiên và các mối liên hệ phức tạp của nó.
Về nhận thức luận và phương pháp luận.
Một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt ở thời
cận đại đó là vấn đề nhận thức luận và
phương pháp luận. Bacơn đã dành một vị trí thích đáng để bàn về những nội
dung này
Trước hết để nhận
thức đúng bản chất của sự vật thì phải chỉ ra khả năng và giới hạn nhạn thức
của con người. Một trong những ảnh hưởng đến quá trình nhận thức chân lý, theo
Bacơn đó là những sai lầm vốn có trong tư duy, do sai lầm trong lý tính mang lại.
Những sai lầm do lý tính tạo ra, Bacơn gọi là những
IDOLA (ảo tưởng, ảo ảnh - theo tiếng Hi Lạp cổ Idola là những hình ảnh bị phản
ánh một cách lệch lạc). Bacơn đã gom lại các sai lầm và chia thành bốn ảo ảnh
sau:
ẢO ẢNH LOÀI (IDOLA TRIBUS). Những
nhận thức sai lầm do loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình
với bản chất khách quan của sự vật nên dễ dàng gán cho sự vật những ý tưởng của
mình, biến chúng thành thước đo chân lý, thước đo giá trị của sự vật. Ông cho rằng
trí tuệ của con người cũng tương tự như chiếc gương méo, khi pha trộn bản chất
của mình với bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự vật dưới dạng bị xuyên
tạc, bị bóp méo.
Để loại trừ ảo ảnh này, con
người trong nhận thức phải tôn trọng tính khách quan, không được duy ý chí, chủ
quan áp đặt tư tưởng của mình cho các đối tượng, thận trọng thăm dò, tăng cường
quan sát, thực nghiệm, thường xuyên kiểm tra các tài liệu do cảm tính mang lại,
loại bỏ những sai lầm về mặt logic…
ẢO ẢNH HANG ĐỘNG (IDOLA SPECUS).
Thực chất là ảo ảnh loài nhưng nó được biểu hiện ở mỗi con người cụ thể. Do có
những đặc điểm sinh lý riêng biệt, hoàn cảnh giáo dục, nghề nghiệp khác
nhau…làm khúc xạ tầm nhìn, đẻ ra những phán đoán về mọi cái theo bản thân mình
hay theo bè nhóm cảm tính.
Ảo ảnh này được gọi là hang động
vì Bacơn xem trí tuệ của con người méo mó như hang động của Platôn, cái ta cảm
nhận được không phải là bản chất, chỉ là bản sao giống như ảo ảnh tưởng rằng nhốt
được mặt trăng vào trong chậu nước.
ẢO ẢNH THỊ TRƯỜNG (IDOLA FORI).
Ảo ảnh này xuất hiện do thường xuyên sử dụng những danh từ trống rỗng để giao
tiếp trong cuộc sống hàng ngày (giống như ở chợ). Đó còn do sự ngộ nhận sử dụng
các thuật ngữ khoa học chưa thật chính xác. Theo ông, nhiều từ ngữ đã trở nên
cưỡng bức lý tính, làm đảo lộn tất cả và cuối cùng, thì chỉ dẫn mọi người đến
các cuộc cãi vả để diễn giải những cái rỗng tuếch. Vì thế phải phải bỏ thói
quen dựa vào các quan niệm đang lưu hành và có thái dộ phê phán đối với các thuật
ngữ mơ hồ không chính xác. Theo Bacơn, điều kiện được gọi là tri thức phải là
tính chính xác của khái niệm.
ẢO ẢNH SÂN KHẤU (IDOLA
THEATRI). Sai lầm bắt nguồn do chúng ta quá tin vào người xưa, diễn ra trước mắt
người ta như diễn ra trên sân khấu. Quá khứ chỉ là một thời kỳ ấu trĩ của loài
người chứ không phải là một thời hoàng kim; để đi đến chân lý không nên giáo điều,
hoặc rơi vào chủ nghĩa hoài nghi luận.
Ý nghĩa tích cực của những ảo ảnh
là ở chỗ không chỉ chống lại các suy luận vô căn cứ của thần học, kinh viện mà
còn đặt cơ sở xã hội cho quá trình nhận thức. Đó là tôn trọng khách quan, phê
phán và không giáo điều. Một ý nghĩa không chỉ thuộc về thời Cận đại mà cho tất
cả các thời đại. Ý nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức.
Về phương pháp luận, theo Bacơn
cần phải rà soát những phương pháp trước đây để từ đó kế thừa và triển khai
phương pháp mới.
Ông cho rằng từ trước đến nay
con người chủ yếu sử dụng hai phương pháp là phương pháp con nhện và phương
pháp con kiến. Cả hai phương pháp này đều bộc lộ hạn chế, vì vậy ông đề xuất
phương pháp con ong. “Con ong chọn phương thức hành động trung gian, nó khai
thác vật liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng đồng nhưng sử dụng và biến đổi nó phù
hợp với khả năng và chỉ định của mình. Công việc đích thực của triết học cũng
không khác gì công việc đó”.
Về vai trò của phương pháp,
Bacơn cho rằng “người què chạy đúng hướng sẽ nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường”
hoặc “phương pháp giống như ngọn đèn soi đường cho lữ khách trong đêm đông”.
Ông đề xuất phương pháp quy nạp.
Theo ông đó là phương pháp tối ưu để nhận thức, khám phá những bí mật của đối
tượng nhận thức. Bản chất của phương pháp này là xuất phát từ những sự kiện
riêng biệt sau đó tiến dần lên những nguyên lý phổ biến, khẳng định bản chất của
sự vật.
Triết học Bacơn là triết học
duy vật không triệt để khi ông không dám công khai xung đột với tôn giáo. Điều
này thể hiện tính thoả hiệp trong triết học của ông. Mặc dù vậy, triết học duy
vật của Bacơn đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của khoa học, nó
giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.
Đánh giá bài viết?