Giáo dục hiện sinh
Thập niên 50, một số nhà giáo dục Mỹ đã vận dụng thuyết hiện sinh vào việc xây dựng triết lý giáo dục do họ thấy các quan điểm cơ bản của triết thuyết này đem lại không ít gợi ý về mặt giáo dục đạo đức và quan hệ thầy trò. Từ đó hình thành một trường phái mới trong ngành giáo dục – giáo dục hiện sinh.
1. Mục đích giáo dục. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng con người được ra đời một cách không có nguyên cớ gì hết, mọi tồn tại đều ngẫu nhiên, cho nên giáo dục thuần túy là việc của cá nhân. Mục đích của giáo dục là làm cho mỗi người nhận thức được sự tồn tại của chính mình và hình thành cách sống riêng của mình. Vì thế giáo dục phải ủng hộ tự do cá nhân, giúp người ta tiến hành tự lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn đó. Sai lầm của giáo dục truyền thống là không nhấn mạnh con người và sự tồn tại của con người, mà chỉ chú trọng những chuyện không liên quan tới sự tồn tại của con người. Thuyết hiện sinh nhấn mạnh kết quả tốt nhất của giáo dục là trau dồi cho học sinh thái độ đúng đắn đối với cuộc đời mình, trong đó quan trọng nhất là lòng chân thành, lựa chọn và quyết định, tinh thần trách nhiệm.
1. Chân thành: muốn có con người chân thành thì giáo dục phải phản đối sự ức chế con người, sự ngăn cản con người phát triển thoải mái. Phải làm cho học sinh không sợ cô lập, không sợ sự phân biệt đối xử của tập thể; giáo dục không nên nhấn mạnh sự phục tùng ngoan ngoãn và tuân theo quy củ. 2. Lựa chọn và quyết định: giáo dục cần trau dồi cho học sinh thói quen tự lựa chọn và quyết định mọi việc; cần khuyến khích học sinh đưa ra sự lựa chọn có ý thức. 3. Tinh thần trách nhiệm: giáo dục nên giúp học sinh hiểu được trách nhiệm của mình, chịu trách nhiệm về mọi lựa chọn, biết coi cuộc đời là của mình, không ai có thể thay thế, bởi vậy không thể đẩy trách nhiệm mình cho hoàn cảnh, gia đình, người khác, sức ép từ bên ngoài, hoặc các quy luật khách quan. Biểu hiện của ý thức trách nhiệm là tâm trạng lo lắng, phiền não, sợ hãi, gây ra bởi sự đối kháng giữa tự do với các nguy hiểm và đe dọa, nhất là đối kháng giữa tự do với cái chết. Bởi vậy giáo dục cần giúp học sinh thấy rõ tính bi kịch của cuộc đời, hiểu rằng sự tồn tại và cuộc đời của mình là đau khổ, ngắn ngủi và không tránh khỏi cái chết. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng nhà trường nên qua việc giáo dục về cái chết làm cho học sinh hiểu được chết vì lý tưởng còn tốt hơn giữ mạng sống.
2. Chương trình học. Căn cứ xác định chương trình học : Thuyết hiện sinh cho rằng căn cứ xác định chương trình học không phải là bản thân hệ thống tri thức khách quan mà là nhu cầu tự thực hiện của học sinh; cho rằng việc quy định một chương trình học cố định bất biến cho học sinh là không thích hợp, vì nó không xét tới thái độ của học sinh đối với tri thức. Hoàn cảnh của con người luôn biến đổi không có gì là cố định, tuyệt đối. Chương trình học cố định khó thích ứng với tình hình và nhu cầu của học sinh, không lợi cho việc phát triển của học sinh. Không nên để học sinh bị tài liệu giảng dạy chi phối mà nên để học sinh trở thành người chi phối tài liệu giảng dạy. Chương trình học có trọng điểm là “thế giới nhân cách”: các môn học nhân văn như lịch sử, văn học, nghệ thuật, tôn giáo nên chiếm địa vị quan trọng; chúng đề cập đến mối quan hệ người-người, sự vui buồn hợp tan, sự viển vông và ý nghĩa của cuộc đời, sự sa đọa và cao thượng của tính người. Các môn học nhân văn có mối liên hệ bản chất với sự tồn tại của con người.
3. Thầy và trò. Tác dụng của thầy: Với chủ trương tôn trọng tính chủ quan của trò, nhấn mạnh sự lựa chọn cá nhân và tinh thần trách nhiệm của trò, thuyết hiện sinh cho rằng thầy không nên làm kẻ chuyển tải tri thức và đạo đức cho trò, và cũng không nên là người giám sát trò; mặt khác thầy phải tôn trọng tính chủ quan của trò, coi trò là một con người chứ không phải là một vật, đồng thời cần giữ tính chủ quan của mình, sao cho bản thân hành động như một người tự do.
Tác dụng của thầy đối với trò phải có “tính sản xuất” chứ không nên có tính “copy” hàng loạt ra một mẫu người theo mô thức của thầy. Địa vị của trò : trò có quyền lựa chọn chứ không phải là bắt chước và phục tùng thầy. Không những trò có thể quyết định học gì mà còn quyết định học bao nhiêu; điểm xuất phát của học tập không phải là các tri thức và quy tắc đạo đức mà là cá nhân của sự tồn tại; trò phải từ góc độ cá nhân mà tích cực phân biệt và kiểm nghiệm giá trị của mình và ý nghĩa của nó đối với đời sống cá nhân. Mục đích học tập cũng chỉ là làm phong phú sự tồn tại của cá nhân, tìm kiếm chân lý sinh tồn. Quan hệ thầy trò: Thầy và trò đều là các cá nhân có tính chủ quan. Mối quan hệ thầy trò quyết định bởi quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh về mối quan hệ giữa người với người khác. Đa số nhà giáo dục hiện sinh tán thành quan điểm của Buber: quan hệ thầy trò là mối quan hệ “tôi và anh”, chứ không phải “tôi và nó” (I – you; I – it). “Tôi và anh” thể hiện chân thành mối quan hệ giữa hai con người có tính chủ thể, có thể gọi là sự “đối thoại” hoặc “giao lưu”. Đối thoại và giao lưu có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thực hiện mục đích giáo dục làm cho trò đạt được tự do thực sự. Để phát triển quan hệ đối thoại thầy-trò, trước tiên hai bên phải tín nhiệm nhau, vì tín nhiệm là cơ sở của đối thoại. Muốn được trò tín nhiệm thì thầy phải chân thành và thẳng thắn tham dự vào cuộc sống của trò và gánh lấy trách nhiệm. Hai là xử lý ổn thỏa sự va chạm thầy-trò; việc giải quyết ổn thỏa đó cũng có giá trị giáo dục.
Phương pháp giáo dục: Đa số nhà giáo dục hiện sinh cho rằng phải thay đổi phương pháp của giáo dục truyền thống. Giáo dục nhằm để học sinh nhận thức được sự tồn tại của mình, do đó phương pháp giáo dục nên cho phép học sinh có dịp tự thể hiện và tự lựa chọn trong giới hạn lớn nhất.
Phương pháp của Socrates và phương pháp giáo dục cá biệt hóa được cho là thích hợp hơn cả. Phương pháp Socrates: chủ trương không truyền thụ cho học sinh các tri thức có sẵn bằng một phương thức nào đó, mà là từ học sinh lấy ra tri thức và để học sinh tự quyết định và lựa chọn, cái mà học sinh nhận được là tri thức của mình. Trong dạy học, thầy dùng hình thức hỏi để gợi ý và dẫn dắt trò suy nghĩ, tránh được mối quan hệ thầy trò máy móc gây ra bởi phương pháp giảng bài. Đồng thời nó có thể làm cho học sinh hiểu rằng trong quá trình tồn tại của mình tất nhiên sẽ gặp các nan đề đạo đức và trách nhiệm của sự tự do lựa chọn. Phương pháp này có giá trị giáo dục rất lớn, về giáo dục đạo đức lại càng cần thiết
2). Giáo dục cá biệt: quan điểm giáo dục hiện sinh không tán thành giáo dục truyền thống coi nhẹ cá tính của trẻ em, dồn trẻ em vào nhà máy giáo dục rồi tiến hành chế biến và nhào nặn chúng theo một mô thức nào đó; trong nhà máy ấy, thầy và trò có mối quan hệ với nhau như là hai loại người có thuộc tính nhất định chứ không phải là hai con người có tính chủ quan, hai bên xa lánh nhau. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội và tác phong, thị hiếu, nhu cầu của mỗi người thì khác nhau; tương ứng, sự giáo dục đối với họ cũng không thể như nhau. Thuyết hiện sinh chủ trương dù là nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy hoặc tiến độ giảng dạy đều phải có tính linh hoạt lớn chứ không thể như nhau, cũng không thể dùng một tiêu chuẩn thống nhất để đề ra yêu cầu về thành tích học tập của học sinh./.
Huy Đường Tổng hợp theo tài liệu nước ngoài
Nguồn: Tia sáng
-----------------------------------------
-----------------------------------------
Từ khóa: Triết học, triết học phương tây, triết học phương tây hiện đại, triết học phương đông, nho giáo, phật giáo, đạo giáo, công giáo, triết học Hy Lạp cổ đại, triết học trung cổ, triết học tôn giáo, triết học phục hưng, triết học cận đại, triết học hiện sinh, chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa thực dụng, các trường phái triết học, các nhà triết học, các cặp phạm trù, triết học mác lênin
Đánh giá bài viết?