Mấy suy nghĩ về việc đổi mới ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay (P.I)

Nguyễn Thúy Vân
 PGS. TS triết học, khoa Triết học
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
ĐH Quốc gia Hà Nội

Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề đổi mới và nâng cao ý thức pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những thay đổi tích cực trong đời sống pháp luật. Để đổi mới ý thức pháp luật đó, cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu về phương diện lý luận, nhìn nhận ý thức pháp luật và vấn đề đổi mới nó từ góc độ triết học. Trong bài viết này, tác giả đã cố gắng luận giải tính tất yếu phải đổi mới ý thức pháp luật, những nội dung cần đổi mới và một số xu hướng đổi mới ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay.

Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đã bước sang một giai đoạn mới – giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với những thời cơ và thách thức lớn. Toàn cầu hoá kinh tế và phát triển kinh tế tri thức đang tạo ra những thay đổi căn bản trên phạm vi toàn thế giới cũng như trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia bởi sự tác động đa chiều, phức tạp của nó. Quá trình này đang đặt ra trước chúng ta vấn đề là làm sao để vừa có thể tranh thủ, tận dụng được những cơ hội, tiếp thu cái mới, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế – xã hội nhằm nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, vừa có thể bảo vệ được lợi ích của đất nước, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần phải có sự đổi mới, chuyển đổi đồng bộ trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực ý thức pháp luật.

Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, ra đời trong quá trình phản ánh, khái quát hiện thực khách quan từ góc nhìn pháp luật. Mặc dù là cái bị quy định bởi tồn tại xã hội, nhưng trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển, ý thức pháp luật có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của tồn tại xã hội. Thực tiễn phát triển của các quốc gia trên thế giới đã chứng minh rằng, quá trình phát triển xã hội dựa vào luật pháp – sản phẩm của ý thức pháp luật – luôn mang lại những kết quả thiết thực và rất có ý nghĩa.

Trong thời gian qua, ý thức pháp luật Việt Nam đã từng bước phản ánh, khái quát hoá những yêu cầu khách quan của các quan hệ xã hội mà ở đó, cần có sự điều chỉnh của luật pháp, thể hiện những tư tưởng, tình cảm, thái độ tôn trọng và tích cực đối với các vấn đề có liên quan đến đời sống pháp luật nước ta, đến những đòi hỏi do thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận một thực tế là, thực trạng chung của ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, trong đó hạn chế lớn nhất là không theo kịp sự biến đổi của tồn tại xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân làm cản trở, và trong nhiều trường hợp, còn kìm hãm, làm chậm bước phát triển của hiện thực. Vì thế, để cho ý thức có thể vận động theo kịp với sự biến đổi của xã hội, phản ánh đúng đắn hiện thực, đóng vai trò mở đường cho thực tiễn phát triển, chúng ta cần phải đổi mới ý thức, nâng cao tính tích cực, chủ động của nó trong hoạt động thực tiễn. Nhưng, để đổi mới ý thức pháp luật, chúng ta không thể bắt đầu từ những ý muốn tốt đẹp một cách chủ quan. Ý thức pháp luật chỉ có được những đổi mới thực sự, đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn đặt ra, khi nó xuất phát từ chính những đòi hỏi của thực tiễn và nhận thức. Chỉ có bắt đầu từ chính sự biến đổi, phát triển của hiện thực với tư cách những tiền đề khách quan, từ những đòi hỏi của quá trình nhận thức với tư cách những tiền đề chủ quan, chúng ta mới có thể lý giải được tính tất yếu và những nội dung cần đổi mới của ý thức pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn được đề cập tới ba vấn đề: một là, tại sao phải đổi mới ý thức pháp luật; hai là, phải đổi mới cái gì trong ý thức pháp luật; và ba là,những xu hướng đổi mới của ý thức pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 

1. Tại sao phải đổi mới ý thức pháp luật.
Xét từ khía cạnh triết học, có hai nguyên nhân dẫn đến việc phải đổi mới ý thức pháp luật. Một là, hiện thực mà ý thức phản ánh đã thay đổi và do vậy, muốn phản ánh đúng hiện thực, ý thức phải biến đổi theo. Đây là nguyên nhân xuất phát từ vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức. Hai là, chính sự vận động, biến đổi và phát triển của bản thân ý thức pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu tất yếu phải đổi mới nó. Đây là nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân ý thức, mặc dù, xét đến cùng, nó vẫn bị chi phối bởi hiện thực khách quan, nhưng với tính độc lập tương đối của mình, bản thân sự vận động, biến đổi và phát triển của ý thức cũng đặt ra những yêu cầu khách quan cho việc phải đổi mới chính mình.

Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội từ góc độ pháp luật, thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có giai cấp. Theo đó, ý thức pháp luật và pháp luật là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định và bị chi phối bởi các yếu tố trong cơ sở hạ tầng mà quan trọng nhất là các điều kiện kinh tế. Vì thế, những nội dung của ý thức pháp luật và những quy định của pháp luật, xét đến cùng, chính là sự phản ánh đời sống hiện thực khách quan, phản ánh sự vận động, biến đổi và phát triển của đời sống mà trong đó, ý thức pháp luật và pháp luật thể hiện ra. Chính vì vậy, các nhà lập pháp không thể tuỳ tiện sáng tạo ra pháp luật, mà phải chịu sự chi phối của các yêu cầu khách quan phát sinh trong các quan hệ xã hội. Về điều này, C.Mác đã khẳng định: “Nhà lập pháp phải coi mình như là nhà khoa học tự nhiên. Ông ta không làm rapháp luật, ông ta không phát minh ra chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức. Chúng ta sẽ phải chê trách nhà lập pháp  là vô cùng tuỳ tiện, nếu như ông ta thay thế bản chất của sự việc bằng những điều bịa đặt của mình”(1).  Như vậy, trong mối quan hệ với đời sống xã hội, ý thức pháp luật và pháp luật là cái bị quy định. Mọi sự vận động, biến đổi và phát triển của ý thức pháp luật và pháp luật đều có căn nguyên từ những thay đổi, vận động và phát triển của đời sống xã hội. Và, mặc dù là cái ổn định hơn so với sự biến động của đời sống xã hội, nhưng cuối cùng, sớm hay muộn, ý thức pháp luật và pháp luật cũng phải thay đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội. “Nếu những thay đổi xã hội được thực hiện ở phạm vi rộng lớn thông qua những bước nhảy vọt (cách mạng), tức là xã hội có sự biến đổi về chất, bao giờ cũng kèm theo sự ra đời của một kiểu pháp luật mới về chất, tương ứng với những biến đổi cách mạng của xã hội… Nói một cách ngắn gọn, mọi sự biến đổi xã hội bao giờ cũng kéo theo những biến đổi tương ứng trong đời sống pháp luật của mỗi quốc gia. Luật pháp chỉ có ý nghĩa và giá trị trên mọi phương diện của đời sống, khi nó không đứng ngoài các quá trình biến đổi của xã hội”(2). Ở nước ta hiện nay, những thay đổi nhanh chóng trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong bối cảnh hội nhập và phát triển chính là những tiền đề khách quan, xét từ phương diện bản thể luận, đặt ra yêu cầu tất yếu phải đổi mới ý thức pháp luật.

Tuy nhiên, khi nhấn mạnh tính bị quy định bởi các điều kiện kinh tế – xã hội của ý thức pháp luật, cũng cần phải đề cao vai trò, tác động của ý thức pháp luật và pháp luật đối với quá trình phát triển của hiện thực xã hội. Khi đã ra đời và thể hiện sự tác động của mình trong đời sống xã hội, pháp luật với tư cách cái thể hiện sự nhận thức và khái quát hoá của ý thức pháp luật đã trở thành lực lượng vật chất to lớn, đảm bảo cho sự phát triển và ổn định của đời sống xã hội. “Nếu như trong các điều kiện phát triển bình thường của xã hội công dân, luật pháp giữ một vai trò quan trọng, quyết định số phận của sự ổn định và khả năng phát triển, thì trong một xã hội đang trải qua những biến đổi sâu sắc và toàn diện, luật pháp, hơn bao giờ hết, lại trở nên quan trọng hơn nhiều lần”(3). Điều đó cho thấy, ý thức pháp luật và luật pháp có vai trò vô cùng to lớn và hết sức quan trọng đối với những thay đổi của xã hội. Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh rằng, những đổi mới, phát triển trong xã hội chỉ có ý nghĩa và mang lại kết quả thiết thực khi chúng được thực hiện trong một môi trường pháp lý vững chắc và ổn định. “ Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của các cuộc cải cách, đó là người ta đã đặt các cải cách xã hội tách biệt với luật pháp. Một khi pháp luật bị đặt ra ngoài các quá trình biến đổi xã hội hoặc bị hạ thấp hay phớt lờ thì tất yếu, các cải cách ấy hoặc là mang tính nửa vời, thậm chí chết yểu, hoặc là gây nên những đảo lộn nghiêm trọng đối với đời sống xã hội, xô đẩy xã hội vào những nguy cơ khủng hoảng”(4).    

Với tư cách một hình thái ý thức tồn tại một cách độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội, bản thân quá trình vận động, biến đổi và phát triển nội tại của ý thức pháp luật cũng đặt ra yêu cầu của việc tất yếu phải đổi mới ý thức pháp luật. Trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển của nhận thức, ý thức về hiện thực không phải ngay từ đầu đã là những nhận thức đúng đắn, hoàn thiện về bản chất của đối tượng. Quá trình này, một mặt, phụ thuộc vào những quy luật đặc thù của nhận thức trong sự tách rời tương đối so với hiện thực, như nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cụ thể đến trừu tượng rồi lại từ trừu tượng đến cụ thể, từ cái riêng đến cái chung rồi lại từ cái chung đến cái riêng, từ bộ phận đến toàn thể, v.v.; mặt khác, còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực của chủ thể nhận thức. Vì thế, trên con đường nhận thức, phản ánh hiện thực khách quan, việc xuất hiện những nhận thức sai lầm, phiến diện, bề ngoài, ngẫu nhiên, chủ quan về hiện thực là điều không tránh khỏi. Quá trình khắc phục những hạn chế, sai lầm của nhận thức chính là quá trình làm cho nhận thức vận động, biến đổi và phát triển lên một trạng thái mới về chất. Với tư cách một bộ phận của ý thức xã hội, sự pháttriển của ý thức pháp luật không nằm ngoài tính quy luật đó. Bản thân quá trình vận động, biến đổi và phát triển đi lên  của ý thức pháp luật trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước ở nước ta hiện nay luôn hàm chứa trong nó việc sửa đổi, thay thế, đổi mới những nhận thức không đúng đắn hay không còn phù hợp bằng những tri thức đúng đắn hơn về đối tượng. 
Còn nữa...
TẠP CHÍ TRIẾT HỌC SỐ 10 (185) NĂM 2006
 

 
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?