Charles Sanders Peirce (1839 - 1914) - Người sáng lập chủ nghĩa thực dụng Mỹ (P.II)


Nền tảng triết học của Charles S.Peirce là “thuyết sao chụp hiện tượng” (phaneron – hiện tượng, vẻ bề ngoài) và học thuyết về ba cấp độ cơ bản của tồn tại và nhận thức mà ông diễn tả bằng ba phạm trù: “Tính thứ nhất” – cấp độ mà ở đó, sự gặp gỡ giữa tinh thần sáng tạo tự do và hiện thực sẽ tạo ra tính đa dạng vô tận về tiềm năng ở các “chất lượng có thể có” của những “dự án thực tại” lý tưởng hay của các hình thức thuần túy. “Tính thứ hai” – cấp độ tồn tại của các sự vật với tư cách một tập hợp các khách thể riêng biệt và mối quan hệ của chúng. Và, “Tính thứ ba” – cấp độ “thực tại đích thực”, những khái niệm phổ biến (các quy luật, các bản chất)(4).

Diễn tả tồn tại và nhận thức theo ba cấp độ này, Charles S.Peirce cho rằng, sự tồn tại hiện thực là kết quả của “sự can thiệp” của tinh thần vào tính tự phát liên tục và toàn vẹn của tồn tại, là “sự tách rời” khỏi chỉnh thể đó các sự vật cùng với những mối liên hệ và quan hệ của chúng, là việc xác định các quy luật tạo dựng và hoạt động chung của chúng. Còn việc đưa lý tính vào hiện thực phi lý tính thì được thực hiện trong kinh nghiệm thực tiễn của chủ thể – cái kinh nghiệm cho phép xác định được những điều kiện để kiểm nghiệm các phán đoán nhằm hợp lý hóa thế giới và qua đó, đem lại cho thế giới này địa vị là một thực tại.
Như vậy, có thể nói, cái gọi là “hiện tượng học tinh thần” mà Charles S.Peirce đã xây dựng nên, ngay từ đầu, đã bao hàm trong nó tính hai mặt. Một mặt, nó tuân thủ những quan niệm truyền thống của chủ nghĩa hiện thực trung cổ, khi khẳng định tính hiện thực của những khái niệm phổ biến. Mặt khác, nó thừa nhận sự tồn tại hiện thực của thế giới đã được nhận thức (tính chỉnh thể, các khách thể và những mối quan hệ riêng biệt) với tư cách sự tồn tại không phụ thuộc vào tinh thần nhận thức. Tính hai mặt này trong “hiện tượng học tinh thần” của Charles S.Peirce không phải là một mâu thuẫn mang tính hình thức, mà có thể coi đó là vấn đề – antinomi mà luận điểm (hiện thực tồn tại trước nhận thức) và phản luận điểm (thực tại xuất hiện trong quá trình nhận thức và được hình thành trong đó) của nó thể hiện ra như là hai mặt của mối quan hệ biện chứng và như là tính quy định lẫn nhau của mối quan hệ chủ thể – khách thể(5).

Bản thân Charles S.Peirce cũng nhận ra điều này và ông đã cố gắng tìm cách giải quyết antinomi đó trong quá trình phân tích và luận giải thực tiễn nhận thức của chủ thể mà, với việc phóng đại, đề cao đến mức thái quá yếu tố chủ quan của thực tiễn nhận thức đã đưa ông tới chỗ sáng lập nên một trào lưu triết học mới – chủ nghĩa thực dụng.

Về cống hiến này của Charles S.Peirce  trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, chúng tôi muốn lưu ý rằng, mặc dù ông được thừa nhận là người sáng lập chủ nghĩa thực dụng, nhưng bản thân ông lại không phải là người thực dụng chủ nghĩa một cách triệt để và thuần túy. Trước thập niên 70 của thế kỷ XIX, Charles S.Peirce  chỉ chuyên tâm nghiên cứu về lôgíc quan hệ. Khi đó, tư tưởng của ông thể hiện rõ khuynh hướng chống chủ nghĩa tâm lý và bản thân ông cũng chưa trở thành nhà thực dụng chủ nghĩa. Tư tưởng thực dụng chủ nghĩa chỉ được ông đưa ra vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX. Năm 1872, lần đầu tiên, ông đưa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tư tưởng cơ bản, quan niệm chủ yếu của mình về chủ nghĩa thực dụng trong báo cáo khoa học đọc tại “Câu lạc bộ siêu hình” thuộc Đại học Harvard. Sau đó, báo cáo khoa học này đã được ông chỉnh lý, bổ sung thành hai bài viết với tên gọi Xác định niềm tin và Làm thế nào để cho quan niệm của chúng ta được sáng tỏ và lần lượt cho đăng trên Nguyệt san khoa học phổ thông (số 11 – 1877 và số 1 – 1878). Hai bài viết này được coi là những tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce. Sau này, bản thân Charles S.Peirce còn tiếp tục phát triển thêm tư tưởng thực dụng chủ nghĩa này của mình. Song, vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XIX, ông chủ yếu dồn sức cho việc xây dựng một hệ thống triết học rộng rãi với dự định đưa vào đó cả vấn đề bản thể luận, nhưng lại không hoàn thành, Do vậy, về cơ bản, sự phát triển thêm này không thống nhất với tư tưởng thực dụng chủ nghĩa mà ông đã đưa ra từ những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX và nó cũng không hoàn toàn đồng nhất với tư tưởng của các nhà thực dụng chủ nghĩa sau ông. Chính vì thế, vào những năm đầu thế kỷ XX, ông đã nhận thấy việc cần phải tách riêng chủ nghĩa thực dụng của mình với chủ nghĩa thực dụng của W.James, của F.C.Schiller - đại biểu của trào lưu thực dụng chủ nghĩa Anh, và thậm chí với cả J.Dewey – nhà triết học thực dụng của “chủ nghĩa tự do triệt để”. Do vậy, khi nghiên cứu tư tưởng triết học của Charles S.Peirce, theo chúng tôi, cần phải có sự luận giải chuyên biệt về những tư tưởng này chứ không nên quy giản một cách đơn thuần về chủ nghĩa thực dụng.

Thực ra, khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism) là khái niệm do W.James nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát biểu đọc tại California vào năm 1898 với tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả thực tế. Trong bài phát biểu này, W.James đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và “nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ nghĩa thực dụng” của Charles S.Peirce. Bản thân Charles S.Peirce, trong báo cáo khoa học đọc tại “Câu lạc bộ siêu hình” và cả trong hai bài viết được chỉnh lý từ báo cáo này, vẫn chưa sử dụng danh từ “chủ nghĩa thực dụng”. Sau này, ông đã nhiều lần định sử dụng danh từ này, nhưng cảm thấy ý nghĩa của nó chưa được rõ ràng nên chưa dùng. Mãi đến năm 1902, khi viết đề mục Từ điển triết học tâm lý của Boune, ông mới sử dụng danh từ này. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này, ông nhận thấy quan điểm của mình về chủ nghĩa thực dụng đã bị W.James giải thích một cách sai lệch. Do vậy, để phân biệt với quan điểm của W.James và các nhà thực dụng chủ nghĩa khác, ông đã sửa đổi danh từ “chủ nghĩa thực dụng” thành “chủ nghĩa thực hiệu” (pragmaticism) và cho rằng, việc sử dụng danh từ “xấu xí” này sẽ không bị người khác giải thích sai lệch(6).
Charles S.Peirce xây dựng tư tưởng thực dụng chủ nghĩa của mình dưới ảnh hưởng của triết học

Kant. Ông đã dựa vào quan niệm của I. Kant – quan niệm coi “niềm tin ngẫu nhiên” tạo nên phương thức thực hiện trong thực tế có tính xác định là “niềm tin thực dụng”, và những luận điểm mà I. Kant đưa ra khi giải thích sự khác nhau giữa hai khái niệm “thực dụng và “thực tiễn”, để trình bày và luận giải quan niệm của mình về chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, giữa Charles S.Peirce và I.Kant vẫn có sự phân biệt về nguyên tắc. I.Kant đưa ra quan niệm về “niềm tin thực dụng” nhưng lại không phải là người thực dụng chủ nghĩa. I.Kant hạn chế tri thức nhân loại ở phạm vi hiện tượng, nhưng ông không phủ nhận khả năng có thể nhận được tri thức có tính phổ biến và tất yếu của nhân loại. Còn chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce thì lại coi mọi tri thức của nhân loại đều là “niềm tin thực dụng”; rằng tri thức chẳng qua chỉ là phương tiện để nhân loại xác định niềm tin và biến niềm tin này thành phương thức hành động. Charles S Peirce cũng mong muốn xây dựng một hệ thống triết học hoàn chỉnh như hệ thống triết học của I.Kant nhưng lại không phải là hệ thống của I.Kant. Mặc dù mong muốn như vậy, song ông đã không thực hiện được mong muốn này. Chủ nghĩa thực dụng của ông không phải là một hệ thống triết học hoàn chỉnh, mà cũng như các nhà thực dụng chủ nghĩa khác, trong hệ thống đó không có chỗ cho bản thể luận. Bản thân Charles S Peirce cũng thừa nhận rằng, chủ nghĩa thực dụng của ông “tự nó không phải là học thuyết siêu hình, không có ý định xác định bất kỳ tính chân lý nào của sự vật. Nó chỉ là phương pháp phát hiện từ hiện thực và ý nghĩa của khái niệm trừu tượng”(7). Ông còn nhiều lần khẳng định rằng, cái quan tâm chủ yếu của ông là làm cho tư tưởng và khái niệm mà con người đưa ra có được kỹ xảo và phương pháp rõ ràng. Chính vì vậy mà ông muốn xây dựng chủ nghĩa thực dụng của mình thành một loại lôgíc khoa học hay phương pháp luận khoa học để phân tích ý nghĩa của từ, của khái niệm, tư tưởng hay ý nghĩa của ký hiệu và biến chúng thành phương tiện xác định niềm tin, phương thức sử dụng hành động để đạt đến mục đích. Do vậy, phương thức để xác định niềm tin và vấn đề xác định niềm tin trên cơ sở “làm sạch” khái niệm, tư tưởng đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu trong chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce. 

Chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce tuy không phải là một hệ thống triết học hoàn chỉnh, nhưng những tư tưởng thực dụng chủ nghĩa mà ông đưa ra vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX đã thực sự trở thành cơ sở lý luận  cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng Mỹ ở những năm đầu thế kỷ XX và do vậy, ông xứng đáng được tôn vinh là người sáng lập chủ nghĩa thực dụng Mỹ – một trào lưu triết học có ảnh hưởng lớn không chỉ trong thế kỷ XX, mà còn cho đến cả hiện nay.r

(1) Xem: Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Triết học Mỹ. Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005, tr.87.
(2) Dẫn theo: Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Sđd., tr. 88.
(3) Xem: Lưu Phóng Đồng. Triết học phương Tây hiện đại, t.II. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 92.
(4)  Xem: Viện Triết học. Triết học phương Tây hiện đại – Từ điển. (Người dịch: Đỗ Minh Hợp - Đặng Hữu Toàn; người hiệu đính: Nguyễn Trọng Chuẩn - Đặng Hữu Toàn). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 411.
(5) Xem: Viện Triết học. Sđd., tr. 412.
(6) Xem: Lưu Phóng Đồng. Sđd., tr. 94.
(7) Dẫn theo: Lưu Phóng Đồng. Sđd., tr. 95.
Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?