Sự hiện diện của triết học và văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954- 1975 (P4)


Tác giảNguyễn Thị Việt Nga

               Triết học hiện sinh và văn học hiện sinh có ảnh hưởng lớn đến sáng tác của các nhà văn đô thị miền Nam 1954 - 1975, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, thể loại thuận lợi nhất trong việc chuyển tải những vấn đề về thân phận con người qua những hình tượng nhân vật sinh động. Sự ảnh hưởng này đã mang lại cho văn học đô thị miền Nam một diện mạo riêng, trong đó có những bước tiến đáng được ghi nhận và cũng có không ít hạn chế. Bởi vậy, tiếp cận văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975 cần có tinh thần “gạn đục khơi trong” một cách thực sự khoa học, công bằng
Phần 4: Ảnh hưởng của triết học và văn học hiện sinh đối với văn học đô thị miền Nam 1954- 1975
            Triết học hiện sinh và văn học hiện sinh cùng có mặt tại đô thị miền Nam 1954 - 1975 và cùng có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khó có thể tách bạch đâu là ảnh hưởng của triết học hiện sinh, đâu là ảnh hưởng của văn học hiện sinh bởi đây không đơn thuần là sự ảnh hưởng một cách máy móc, sao chép. Ngay trong các tác gia hiện sinh nổi tiếng thế giới cũng không  thể tách rời văn chương và triết học trong sự nghiệp của họ. Các triết gia viết văn để truyền tải tư tưởng triết học, và các tác phẩm văn chương hiện sinh ấy cũng là một bộ phận hữu cơ của triết học hiện sinh. Các nhà văn đô thị miền Nam 1954 – 1975 đã thấm nhuần tư tưởng hiện sinh và tinh thần hiện sinh cũng thấm đẫm trong sáng tác, trong phê bình văn học nghệ thuật và trên nhiều phương diện.

            4.1. Ảnh hưởng tới phê bình văn học
            Do ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa hiện sinh nên đã có một khuynh hướng phê bình văn học hiện sinh ra đời ở đô thị miền Nam 1954 - 1975, tuy rằng "chưa có nhiều công trình đặc sắc" như nhận định, đánh giá của TS Huỳnh Như Phương. (Huỳnh Như Phương- Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954 - 1975 (trên bình diện lý thuyết). Các nhà phê bình văn học dùng triết học hiện sinh làm cơ sở mỹ học để đánh giá, thẩm bình tác phẩm văn học. Có thể nói, mọi tác phẩm từ văn học dân gian đến trung đại, cận đại, đương đại, văn học nước ngoài... đều được soi chiếu dưới lăng kính hiện sinh. Hầu hết các phạm trù của triết học hiện sinh (vong thân, tha hoá, buồn nôn, phi lý, dấn thân, gia nhập, tha nhân, nổi loạn, cô đơn, hư vô...) đều được ứng dụng thành hệ quy chiếu để  xem xét các tác phẩm văn học. Tác giả Trần Nhật Tân trong bài viết "Đi tìm  tâm thức ca dao trên trục tọa độ không thời" (Dư vang nghệ thuật, Hạnh  xuất bản, SG, 1971) đã dùng "tọa độ hiện sinh" để tìm hiểu các mô thức trong ca dao Việt Nam. Nhiều tác giả, tác phẩm văn học trung đại được thẩm bình bằng "con mắt hiện sinh", trong đó nổi bật nhất có thể kể đến những công trình, bài viết: Thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh [32]; Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày [33] của Lê Tuyên ; Tính chất bi đát trong thi ca Tản Đà của Nguyễn Thiên Thụ [35]; Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do của Nguyên Sa [27]...vv. Trong chuyên luận "Vũ trụ thơ" [29], tác giả Đặng Tiến đã cảm nhận về cái phi lý của cuộc đời qua số phận bi thảm của nàng Kiều. Sự phi lý không bắt đầu từ khi Kiều gặp gia biến, mà sự phi lý hiện hữu ngay khi con người tình cờ, ngẫu nhiên bị ném vào giữa cuộc đời này. Đó là cảm nhận đầy màu sắc hiện sinh: "Không phải khi gặp gia biến Thúy Kiều mới sống bi thảm; trước đó lầm đầu tiên chọn phím đàn, nàng đã chọn cung bạc mệnh, vì cuộc đời một cách tiên thiên, là một thảm kịch. Sự hiện hữu đã phi lý từ khi hai tinh trùng gặp nhau, và nếu chúng không gặp nhau, thì lại càng phi lý hơn nữa. Nỗi đoạn trường thật sự không chấm dứt sau mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều ý thức sâu sắc điều đó nên không tái hợp với chàng Kim, vì đổi một phi lý cô đơn lấy một phi lý lứa đôi chỉ làm việc chồng một thảm kịch này lên thảm kịch khác. Cuộc đời khi chấm dứt vẫn không chấm dứt được được thảm kịch ý thức: sự phi lý vẫn còn trương phình ra đấy" [29,20- 21]. Cuộc đời đầy nước mắt của Thúy Kiều với những nổi chìm đau đớn được nhìn nhận là "sự vận chuyển biện chứng giữa hiện hữu và hư vô tạo tâm trạng lưu đày như một hợp đề" [29,23]. Tác giả Lê Tuyên lại đi sâu khai thác "thời gian hiện sinh" của Truyện Kiều. Thời gian ấy cũng chỉ là hư vô và phi lý. Cả quá khứ, hiện tại và tương lai không có gì khác ngoài hư vô. Đợi chờ con người ở cuối hành trình chỉ là cái chết. Cái chết là nỗi ám ảnh ghê gớm của con người: "Đi về tương lai từ quá khứ và qua hiện hữu, nghĩa là đi về phi lý của nấm mồ (...) Con người sống luôn ao ước ngày mai, luôn nghĩ đến ngày mai, một ngày mai mà có lẽ con người không nên nghĩ đến, có lẽ nên phải từ khước, vì ngày mai là cái chết, vì ngày mai là tiếng đoạn trường" [29,52]. Tác giả Nguyên Sa lại tìm hiểu truyện Kiều từ phạm trù "tự do lựa chọn" "tự do dấn thân" của triết học hiện sinh. Theo ông, không có cái gọi là định mệnh ở trong truyện Kiều. Mọi nổi chìm, lưu lạc của Thúy Kiều không do một "đấng cao xanh" nào hết, không do cuốn "sổ đoạn trường" đầy bí hiểm, mà do sự lựa chọn tự do của Thúy Kiều: tự ý bán mình chuộc cha để dấn thân vào cõi lênh đênh. Bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời nàng cũng đều là kết quả của sự lựa chọn cá nhân.

         Ngoài Truyện Kiều, còn nhiều tác phẩm của các tác gia cổ điển cũng được đánh giá bằng lập trường của chủ nghĩa hiện sinh, như  tác phẩm của  Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh Quan... Đặc biệt, trong  chuyên luận Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày[33], hầu hết những phạm trù cơ bản của triết học hiện sinh như: thân phận lưu đày, hiện hữu cô đơn, cái chết bi đát, tha nhân... được tác giả Lê Tuyên vận dụng để đánh giá, phẩm bình tác phẩm xoay quanh trục trính là người chinh phụ đã phải sống "một kiếp lưu đày tình cảm". Phê bình hiện sinh mang lại cách tiếp cận và cái nhìn mới mẻ đối với các tác phẩm văn học trung đại vốn rất quen thuộc với bạn đọc.

            Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm văn học đương thời của các tác giả như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Duyên Anh, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Đinh Trầm Ca, Thanh Tâm Tuyền, Lệ Hằng, Trùng Dương...cũng được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa hiện sinh. Cuốn "Đi tìm tác phẩm văn chương"[2] của Huỳnh Phan Anh viết về nhiều tác giả bằng khuynh hướng phê bình hiện sinh, từ các tác gia nổi tiếng thế giới như Samuel Beckett, Jean Paul Sartre, Simone De Beauvoir đến các tác gia trong nước như Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Nhất Linh, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo... Viết về tiểu thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh, Huỳnh Phan Anh đã dùng tư tưởng triết học hiện sinh để giải mã tác phẩm. Ông nhận ra "Bướm trắng” là giấc mơ của một tâm hồn đang chới với giữa lòng cuộc đời với những ám ảnh không rời của bệnh tật và cái chết, một giấc mơ điên cuồng, đẹp tuyệt được tạo thành để lấp đầy những khoảng trống vắng hãi hùng của cuộc hiện hữu ngẫu nhiên không trường tồn" [2,146]. Trương, nhân vật chính của tác phẩm là "kẻ lạc loài, tuyệt vọng và tù chung thân của cô đơn và bóng tối" [2,147] "một kẻ đang sống chính cái chết của đời mình". Bên cạnh sự đau khổ, cô đơn, muộn phiền, Trương còn là hình ảnh con người dám sống, con người dám chịu trách nhiệm về mình, con người dấn thân của triết học hiện sinh: " Trương là điển hình của mẫu người người sống trong sự đốt cháy của ý thức. Sống và ý thức về đời sống, về chính mình. Nhưng ý thức về đời sống ở Trương đồng thời cũng là ý thức về cái chết. Trương trước tiên là một cái nhìn thấu suốt căn phần: sống là chạm mặt thường xuyên với chính thân phận đầy giới hạn và ngẫu nhiên của chính mình: sống tức là đang đi lần tới, đã tới chỗ tận cùng của đời sống mình" [2,153-154]. Thơ Hàn Mặc Tử được đánh giá là  "thơ vẽ nên dung nhan hư hoại của kiếp người. Thơ đào sâu kinh nghiệm thiếu sót, tình cảm bại vong trong hành trình bát ngát của thân phận người"[2,322]. "Cái chết ám ảnh, dọa nạt, cái chết âm ỉ trong tâm hồn. Thi sỹ sống cái chết của mình. Hư vô chính là kinh nghiệm của thi sỹ" [2,324].

            Khuynh hướng phê bình hiện sinh góp thêm vào đời sống LLPB văn học đô thị miền Nam một luồng gió mới, làm cho nó thêm phong phú, bên cạnh những khuynh hướng khác như khuynh hướng phê bình giáo khoa, khuynh hướng phê bình phân tâm học, khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng quan điểm Mác xít, khuynh phướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng các tôn giáo (Phật giáo, Thiên Chúa giáo)... Nó cho thấy  sự sôi nổi trong đời sống văn học đô thị miền Nam giai đoạn này, góp phần hiện đại hoá phê bình văn học, đổi mới tư duy lý luận phê bình, làm cho văn học Việt Nam tiếp cận với tư tưởng và văn học hiện đại của thế giới.

            Tuy nhiên, cũng do ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa hiện sinh mà  khuynh hướng phê bình hiện sinh có lúc dẫn đến sự gượng ép, khiên cưỡng trong việc nhìn nhận, đánh giá tác phẩm, khi người phê bình cố gắng "gò" tác phẩm vào những phạm trù của triết học hiện sinh. Vận dụng tư tưởng hiện sinh trong phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975 còn có hiện tượng nói lấy được theo trào lưu, vì hiện sinh lúc đó trở thành một thứ "mốt thời thượng" nên khiên cưỡng, không thuyết phục. Quá nhiều danh từ của triết học hiện sinh  bị lạm dụng đưa vào phê bình văn học khiến cho bài viết trở nên lủng củng, rắc rối, khó hiểu. Ví dụ đây là một đoạn viết về thơ Đinh Hùng của Đặng Tiến trong cuốn "Vũ trụ thơ" với rất nhiều từ ngữ của triết học hiện sinh làm người đọc không khỏi nhức đầu: "Đặc tính của thế giới Đinh Hùng là một thành tố đều được hòa giải; khí hậu tình tự giải tỏa những mâu thuẫn biện chứng, không còn sự khác biệt giữa người - nhìn - vũ - trụ và vũ - trụ - được - nhìn, giữa tâm giới và ngoại giới, giữa bản ngã và vô ngã, giữa thực thể và vô thể, giữa tôi và tha nhân (...) chữ tôi đã bao hàm cái không phải là tôi, nhưng chủ thể không mâu thuẫn với khách thể vì tất cả chưa đạt tới những hữu thể đủ cứng rắn để va chạm" [29,135] .

         Hơn nữa, khi nhìn nhận, đánh giá một tác phẩm văn học, nếu không xem xét, đánh giá trên nhiều chiều, nhiều hướng, nhiều bình diện, chỉ đứng trên lập trường tư tưởng hiện sinh sẽ dẫn đến tình trạng cực đoan.. .Tất cả những thành tựu và hạn chế đó đều hiện diện trong khuynh hướng phê bình văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954 - 1975.

            4.2.  Ảnh hưởng tới sáng tác văn học
            Chủ nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng rất sâu đậm đến sáng tác văn học đô thị miền Nam 1954- 1975 trên tất cả mọi thể loại, nhưng sâu đậm nhất vẫn là thơ ca và tiểu thuyết. Đây cũng là hai thể loại kết tinh thành tựu của văn học đô thị miền Nam giai đoạn này.

            Thơ ca đô thị miền Nam viết nhiều về sự vô định, mong manh, hư vô của kiếp người; về cái chết, nỗi buồn đau trĩu nặng, sự xa lạ của thế nhân, sự đổ vỡ của niềm tin và mơ ước. Những tác giả tiêu biểu cho thơ ca mang khuynh hướng hiện sinh là Bùi Giáng, Nguyên Sa, Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Du Tử Lê, Nhã Ca, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn... Thơ Bùi Giáng "đau đáu về thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu lại? Ta là ai? Những trầm luân biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được" [11]:

Trần gian lạnh con từng không chịu nổi
Người với người cứ làm khổ nhau luôn
.................
Con vẫn biết đời người nhỏ bé
Đau vô cùng dù có cũng nên thôi
Nhưng bắt gặp những mấy lần nhỏ lệ
Hỏi vì sao lá rụng cánh hoa rơi
...................
Thân là máu, thịt và xương chia biệt
Quả tim mềm sao quá dễ tổn thương
Tình cao quý vẫn là dây oan nghiệt
Ngắn vô cùng! lần phùng ngộ với vô biên
....................
Hỡi Thượng đế! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đầy đọa mãi
Để làm gì! Cho sáng nghĩa vô biên”...

            (Dâng - Bùi Giáng)

            Thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như tiểu thuyết của ông, luôn chìm đắm trong nỗi đau cô đơn, luôn vang lên lời khẩn cầu tha thiết của kẻ đi tìm lại bản thể và nhân vị của mình: “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ” “Tôi gào tên tôi thảm thiết”. Đối với Thanh Tâm Tuyền, thơ “không còn là cứu cánh của đời sống, thơ chỉ còn là phương tiện để họ (tức người làm thơ) vào sâu trong ý thức gặp mình, gặp được đời sống và may ra gặp được hồn người” [24]. Trong thơ Trần Dạ Từ, nỗi suy tư về kiếp người bọt bèo, cuộc đời vô định hiện lên thật rõ:

Chiều đò ngang bến sông
Câu hát buồn thơ dại
Dong trôi về mấy hàng
Đời chia về mấy phương
Người dạt về mấy ngả

(Một bến sông - Trần Dạ Từ)

            Kiếp người bọt bèo, cuộc đời vô định, và chờ đợi mỗi chúng ta phía trước là cái chết. Sắc màu hiện sinh đẫm trong mỗi vần thơ.

Ở cuối con đường này
Là dĩ vãng khủng khiếp
Quẹo về bên trái
Những chuyến tàu tám giờ
Tiếng còi trầm réo gọi
Thôi tôi dừng lại đây
Hai vỉa hè tăm tối

(Phạm Ngũ Lão Sài Gòn - Trần Dạ Từ)

            Con đường Phạm Ngũ Lão cụ thể ấy cũng là biểu tượng của con đường đời nhọc nhằn, khổ ải. Phía cuối đường luôn là những tối tăm, đau đớn. Sự đợi chờ của kiếp người là hư vô. Dĩ vãng đã "khủng khiếp", tương lai cũng chẳng sáng tươi. Và cái chết luôn luôn là ám ảnh hãi hùng trong thơ ca đô thị miền Nam 1954 - 1975. Các nhà thơ viết nhiều về cái chết, về sự hiu quạnh thê lương của cõi đời. Trần Dạ Từ đau đớn nghĩ về sự hữu hạn của kiếp người:

Thần chết, em ơi, ngồi ngay trên đầu giường
Thần chết, em ơi, đứng ngay trên trần mùng
...................................................................
Chính thần chết đã cho ta vay ngày thôi nôi
Với bao nhiêu năm sống
Bao nhiêu ngọn nến đủ màu tươi cười trên chiếc bánh sinh nhật
Như anh đã từng vay thần chết
Bao nhiêu ngày đêm phấn đấu và yêu em

(Làm thơ không biết mệt -Trần Dạ Từ)

         Cái ý nghĩ "ta lâm chung ngay tự thủa chào lòng" của Du Tử Lê trong "Bài cuối năm" cũng là lời khẳng định của triết học hiện sinh: con người ta ngay từ khi sinh ra đã đủ tuổi già để chết:

Người chớ khóc than chi, đời đã thế
Ta lâm chung ngay tự thủa chào lòng
Môi đã chết ngay khi hồn đã nhận
Thân đã buồn khi ngực đẫm hơi quen

(Bài cuối năm - Du Tử Lê)

            Giữa cuộc sống thương đau ấy, tình yêu cũng không đủ sức nâng con người khỏi những hoang mang. Tình yêu không ngọt ngào mà cay đắng. Người yêu không thấu hiểu, sẻ chia mà chỉ là "tha nhân" xa lạ:

         Em đến hôm nào như hoa bay
         Tình không độc dược mà đắng cay
         Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
         Mùi hương sát nhân từ ngón tay

         Em đến hôm nào như mây bay
         Gió mưa triền miên chìm nét mày
         Đường vào lòng nhau toàn sạn đạo
         Bước chân tha hương từ dấu này

         (Đường vào tình sử - Đinh Hùng)

            “Thơ miền Nam 54 – 75 là thơ của một thời dằn vặt, suy tư, đau khổ” [24]. Những dằn vặt, suy tư, đau khổ ấy chịu ảnh hưởng rõ rệt của tư tưởng triết học hiện sinh: dằn vặt suy tư về cái chết, về thân phận bé nhỏ của con người, về sự hư vô của cuộc sống, về nỗi tàn phai, sự cô đơn... Nỗi buồn đau "sống trong nỗi chết" được nhắc lại nhiều lần. Kiếp người chỉ là "chân bé nhỏ đi trong sầu bão lớn". Thơ ca đô thị miền Nam 1954 - 1975 nhiều chết chóc, thương đau, chia lìa, tăm tối, nước mắt và địa ngục.

            Bên cạnh thơ ca, tiểu thuyết cũng mang màu sắc hiện sinh rất rõ rệt. Tiểu thuyết là thể loại "bùng nổ" của văn học đô thị miền Nam, tạo thành một hiện tượng trong đời sống văn học thời kỳ đó. Văn học đô thị miền Nam 1954 - 1975 đã tập hợp được một đội ngũ tác giả tiểu thuyết hùng hậu với số lượng tác phẩm đồ sộ,  với nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau. Với ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, sáng tác văn học đô thị miền Nam nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng có sự chuyển mình lớn: sự cảm nhận sâu sắc và đau đớn về thân phận bi đát của con người trong thế giới đầy phi lý. Chủ nghĩa hiện sinh ám ảnh trong tiểu thuyết từ nhan đề cho đến nội dung tác phẩm. Ngay nhan đề các tác phẩm cũng đã thấy được sự buồn thảm, hư vô trong cuộc sống con người : Bóng tối, tiếng cười, môi hôn và nghĩa trang; Chết không nhắm mắt, Lửa mù; Sau cơn mộng dữ; Xâu chuỗi bọt nước; Thềm địa ngục; Thương tích,; Tiếng khóc vào đời; Uyên buồn... của Nguyên Vũ. Bóng tối thời con gái; Cô Hippy lạc loài; Sống một ngày.. của Nhã Ca. Bao giờ hết thương đau; Bóng tối cuộc đời; Cành đào trong bão xoáy; Chân son đường lầy; Chuỗi sầu em đeo; Đôi chim trong bão tố; Hoa môi tàn nụ; Một mình; Mùa đông cô đơn; Nửa gối cô đơn... của Nghiêm Lệ Quân. Cát lầy; Mù khơi... của Thanh Tâm Tuyền. Khung rêu; Lao vào lửa; Cho trận gió kinh thiên; Nhang tàn thắp khuya; Thú hoang.. của Thuỵ Vũ. Biển điên, Mỗi thù rực rỡ; Tôi nhìn tôi trên vách ... của Tuý Hồng. Đừng hỏi tại sao; Bóng ai qua ngoài song cửa, Nửa đêm trăng sụp; Xô ngã bức tường rêu... của Bình Nguyên Lộc. Điệu ru nước mắt; Nước mắt lưng tròng; Sa mạc tuổi trẻ; Ảo vọng tuổi trẻ ... của Duyên Anh. Bóng tối cuối cùng; Buồn như đời người; Vực nước mắt; Một ngày rồi thôi; Năm tháng đìu hiu; Ngày qua bóng tối; Cho những mùa xuân phai; Tình yêu địa ngục; Dưới vực sâu này.. của Nguyễn Thị Hoàng ...v v. Đời sống luôn được miêu tả như thảm kịch, là hư vô, phi lý. Con người bé bỏng, kiếp người mong manh, chới với trong ngập tràn đau khổ, cô đơn, chia lìa.. Những cái chết xuất hiện rất nhiều trong tiểu thuyết đô thị miền Nam 1954 - 1975. Trong sự vô nghĩa, chán chường của cuộc đời, các nhân vật  tiểu thuyết đã vùng vẫy, nổi loạn để chống trả, cho dù đó chỉ là sự vùng vẫy, chống trả trong tuyệt vọng. Họ muốn chống lại sự phi lý, muốn tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời, để đừng sống buồn nôn, đừng bị cuốn theo cái vũng "cát lầy" kinh khủng của cuộc đời. Thế nhưng, họ lại rơi vào bi kịch của tuyệt vọng. Ta thấy thấp thoáng bóng dáng Sagan trong tiểu thuyết của các cây bút nữ đô thị miền Nam với lối viết thản nhiên đến lạnh lùng, thản nhiên cả trong những chuyện hệ trọng và thiêng liêng nhất của con người, của cuộc đời, như thể trên đời này không có gì là nghiêm túc và thiêng liêng nữa; với những mẫu nhân vật “sống nay không biết mai”, không bị ràng buộc bởi bất cứ sợi dây luân lý hay lễ giáo nào; với âm hưởng u buồn chán ngán đến rã rời.... Ta gặp sự ảnh hưởng tư tưởng về cuộc sống phi lý của Camus, về chiến tranh tàn nhẫn của Hemingway.. trong các tiểu thuyết đô thị miền Nam giai đoạn này. Lối văn theo tư duy hiện tượng học cũng đặc biệt được các tác giả đô thị miền Nam yêu thích.

             Triết học hiện sinh và văn học hiện sinh có ảnh hưởng lớn đến sáng tác của các nhà văn đô thị miền Nam 1954 - 1975, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, thể loại thuận lợi nhất trong việc chuyển tải những vấn đề về thân phận con người qua những hình tượng nhân vật sinh động. Sự ảnh hưởng này đã mang lại cho văn học đô thị miền Nam một diện mạo riêng, trong đó có những bước tiến đáng được ghi nhận và cũng có không ít hạn chế. Bởi vậy, tiếp cận văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975 cần có tinh thần “gạn đục khơi trong” một cách thực sự khoa học, công bằng

----
N.T.V.N



Bổ sung tư liệu
Đánh giá bài viết?